A.Người phụ nữ Sa-ma-ri.
1.(1-4) Chúa Giêsu đi từ Giuđê đến Galilê, đi qua xứ Sa-ma-ria.
a.1Khi Chúa đã hay rằng người Pha-ri-si có nghe đồn Ngài gọi và làm phép báp-têm được nhiều môn đồ hơn Giăng, 2 (kỳ thiệt không phải chính Đức Chúa Jêsus làm phép báp-têm, nhưng là môn đồ Ngài), 3 thì Ngài lìa xứ Giu-đê trở về xứ Ga-li-lê: Chúa Giê-su biết rằng vì sự nổi tiếng và uy tín ngày càng tăng của Ngài, sẽ sớm có một cuộc đối đầu với giới lãnh đạo tôn giáo (trong đó có người Pha-ri-si). Tuy nhiên, Chúa Giê-su biết rằng thời điểm chưa thích hợp để đối đầu tại Giê-ru-sa-lem, nên Ngài trở về Ga-li-lê.
b.1bNgài gọi và làm phép báp-têm được nhiều môn đồ hơn Giăng, 2 (kỳ thiệt không phải chính Đức Chúa Jêsus làm phép báp-têm, nhưng là môn đồ Ngài): Công việc làm phép báp-têm của Chúa Giê-su được nhắc đến lần đầu tiên trong Giăng 3:22. Chúa Giê-su coi việc làm phép báp-têm của Giăng là điều quan trọng như một minh chứng cho sự ăn năn và thanh tẩy để chuẩn bị cho Đấng Mê-si. Ở đây, chúng ta biết rằng trong công việc làm phép báp-têm thực tế, Chúa Giê-su đã giao phó công việc đó cho các môn đồ của Ngài.
i.Điều này cũng có nghĩa là khi các môn đồ bắt đầu thực hành phép báp têm của Cơ Đốc giáo vào Lễ Ngũ Tuần (Công vụ 2:41), kinh nghiệm trước đó của họ về phép báp têm có liên quan đến sự ăn năn, thanh tẩy và đồng nhất với công việc của Đấng Mê-si.
ii.“Bằng việc làm phép báp-têm, Ngài chứng thực sự hiệp nhất giữa công việc của Ngài với công việc của của vị tiền nhiệm. Bằng việc không tự mình làm phép báp-têm, Ngài cho thấy địa vị cao trọng hơn của Ngài so với địa vị của Giăng Báp-tít.” (Godet, trích dẫn trong Morris)
c.4Vả, Ngài phải đi ngang qua xứ Sa-ma-ri: Mặc dù con đường qua Sa-ma-ri là con đường ngắn nhất từ Jerusalem đến Galilê, nhưng những người Giu-đa ngoan đạo thường tránh nó. Họ làm vậy vì có sự ngờ vực và thù ghét sâu sắc giữa nhiều người Giu-đa và người Sa-ma-ri.
i.Khi người Assyria chinh phục vương quốc Israel phía bắc (năm 722 TCN), họ đã lưu đày gần như toàn bộ dân Giu-đa, trục xuất họ khỏi vùng đất này. Tất cả những gì họ để lại là những tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội. 136 năm sau, người Babylon chinh phục vương quốc Giu-đa phía nam và áp dụng chính sách tương tự. Những người bị bỏ lại này đã kết hôn với các dân khác không phải người Giu-đa, họ là những người dần dần di cư đến khu vực này, và người Sa-ma-ri nổi lên như một nhóm sắc tộc và tôn giáo.
ii.Vì người Sa-ma-ri có mối liên hệ lịch sử với dân Y-sơ-ra-ên, đức tin của họ là sự kết hợp giữa các mệnh lệnh và nghi lễ từ Luật Mô-sê, cùng với nhiều mê tín dị đoan khác nhau. Hầu hết người Giu-đa vào thời Chúa Giê-su đều khinh miệt người Sa-ma-ri, thậm chí còn ghét họ hơn cả người ngoại bang – bởi vì, xét về mặt tôn giáo, họ là “giống nòi lai tạp” với một đức tin lai tạp, hổ lốn. Người Sa-ma-ri đã xây dựng đền thờ riêng cho Đức Giê-hô-va trên núi Ga-ri-xim, nhưng người Giu-đa đã đốt cháy nó vào khoảng năm 128 TCN. Điều này rõ ràng đã khiến mối quan hệ giữa người Giu-đa và người Sa-ma-ri trở nên tồi tệ hơn.
iii.“Hành trình của họ từ Jerusalem đến Galilee đi qua vùng bên kia sông Jordan. Con đường này dài hơn đáng kể, nhưng tránh được sự tiếp xúc với người Sa-ma-ri. Những người không quá khắt khe thì đi qua Sa-ma-ri.” (Morris)
iv.Đoạn này nói rằng Chúa Giê-su ‘cần phải đi qua Sa-ma-ri‘. Việc này không phải vì sắp xếp việc đi lại hay nhu cầu thực tế, mà vì có những người ở đó cần được nghe về Ngài.
2.(5-6) Chúa Giêsu đến một cái giếng ở Sychar thuộc xứ Sa-ma-ria.
a.5 Vậy Ngài đến một thành thuộc về xứ Sa-ma-ri, gọi là Si-kha, gần đồng ruộng mà Gia-cốp cho Giô-sép là con mình. 6 Tại đó có cái giếng Gia-cốp. Nhân đi đàng mỏi mệt, Đức Chúa Jêsus ngồi gần bên giếng; bấy giờ độ chừng giờ thứ sáu. [Nghĩa là mười hai giờ trưa]: Thành Si-kha là thành Si-chem cổ, và là thủ phủ của dân Sa-ma-ri.
- Đây là nơi Abram lần đầu tiên đến khi ông đến Canaan từ canh đê | Babylon. (Sáng thế ký 12:6)
- Đây là nơi Chúa lần đầu tiên hiện ra với Abram ở Canaan và tái lập lời hứa ban đất này cho ông và con cháu ông. (Sáng thế ký 12:7)
- Đây là nơi Abram dựng một bàn thờ và cầu khẩn danh Chúa. (Sáng thế ký 12:7)
- Đây là nơi Gia-cốp đã đến an toàn khi ông trở về cùng vợ con sau thời gian lưu trú với La-ban. (Sáng thế ký 33:18)
- Đây là nơi Gia-cốp mua một mảnh đất từ một người Ca-na-an tên là Hê-mô với giá 100 miếng bạc. (Sáng thế ký 33:19)
- Đây là nơi Gia-cốp dựng một bàn thờ cho Chúa và gọi là Ên-Ên-ô-hê-Y-sơ-ra-ên (Sáng thế ký 33:20). Điều này thiết lập mối liên hệ giữa Gia-cốp và nơi sau này được gọi là giếng Gia-cốp ở Sychar.
- Si-kha (Shechem) cũng là nơi Dinah, con gái của Jacob, bị cưỡng hiếp – và các con trai của Jacob đã thảm sát những người đàn ông trong thành phố để trả thù. (Sáng thế ký 34)
- Đây là mảnh đất mà Gia-cốp đã cho con trai mình là Giô-sép, vùng đất mà Gia-cốp đã chinh phục được từ tay người A-mô-rít bằng gươm và cung trong một trận chiến không được ghi chép lại. (theo Sáng thế ký 48: 22 Còn cha sẽ cho con một phần đất trổi hơn các anh em, là phần đất của cha đã dùng cung kiếm đoạt lấy của dân A-mô-rít đó.)
- Đây là nơi hài cốt của Joseph cuối cùng được chôn cất khi khi hài cốt đó được mang lên từ Ai Cập. (Giô-suê 24:32)
- Đây là nơi Giô-suê lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, tái lập cam kết của họ với Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và tuyên bố rằng, về phần tôi và nhà tôi, chúng tôi sẽ phục vụ Chúa. (Giô-suê 24 15 Nếu chẳng thích cho các ngươi phục sự Đức Giê-hô-va, thì ngày nay hãy chọn ai mà mình muốn phục sự, hoặc các thần mà tổ phụ các ngươi đã hầu việc bên kia sông, hoặc các thần dân A-mô-rít trong xứ mà các ngươi ở; NHƯNG TA VÀ NHÀ TA SẼ PHỤC SỰ ĐỨC GIÊ-HÔ-VA. (tuy không phải ở Si-chem, Chúa Giê-xu hỏi trong Giăng 6:67, Còn các ngươi, cũng muốn lui chăng? Và Phi-e-rơ trả lời xác quyết 68 Si-môn Phi-e-rơ đáp: “Thưa Chúa, chúng con sẽ theo ai? Chúa có lời của sự sống đời đời.))
i.“Một số người cho rằng Si-kha, có nghĩa là ‘say rượu’, ban đầu là cái tên khinh miệt mà người Giu-đa dùng để chỉ Shechem.” (Alford)
b.6Nhân đi đàng mỏi mệt: Sau một ngày dài đi bộ, Chúa Giêsu đã thấm mỏi mệt. Giăng đã cẩn thận cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là Đức Chúa Trời, nhưng cũng muốn chúng ta biết rằng Chúa Giêsu không phải là một siêu nhân1. Chúa Giêsu thực sự đã chấp nhận những giới hạn của con người.
i.6Đức Chúa Jêsus ngồi gần bên giếng: “Từ bình dị ấy dường như mang một sức mạnh khó diễn tả bằng tiếng Anh. Rõ ràng nó có ý nhấn mạnh đến sự mệt mỏi tột độ.” (Maclaren)
ii.“Trong khi Thánh sử của chúng ta khẳng định rằng chính Ngôi Lời thiêng liêng đã trở thành xác thịt trong Chúa Giêsu, thì đồng thời ngài cũng khẳng định rằng những gì Ngôi Lời thiêng liêng trở thành chính là xác thịt.” (Bruce)
iii.“‘Giếng của Jacob này chắc chắn là cái giếng mà ngày nay người Sa-ma-ri, Giu-đa, cơ đốc giáo và Hồi giáo gọi là ‘nguồn mạch’ hay ‘giếng nước’ của Jacob.” (Trench)
c.6bấy giờ độ chừng giờ thứ sáu: Theo cách tính của Giăng, lúc đó vào khoảng giữa trưa, giữa lúc trời nóng bức. Chúa Jesus, vì mệt mỏi và nóng nực, hẳn muốn uống một ly nước mát giải khát.
3.(7-9) Chúa Giêsu nói chuyện với một người phụ nữ Sa-ma-ri.
a.Nghĩa là mười hai giờ trưa 7Một người đàn bà Sa-ma-ri đến múc nước. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy cho ta uống.: Người phụ nữ này đến lấy nước vào một giờ bất thường và bà đến đó một mình. Thông thường, phụ nữ đến lấy nước vào đầu ngày và họ đến theo nhóm. Có lẽ bà ấy đột nhiên cần nước, hoặc có lẽ bà ấy là một người bị xã hội ruồng bỏ, bị những người phụ nữ khác trong cộng đồng xa lánh.
i.“Phụ nữ thường đến lấy nước cùng với mọi người và vào thời điểm mát mẻ trong ngày.” (Bruce)
ii.Adam Clarke mở rộng suy nghĩ này: “Người Giu-đa nói rằng những người muốn lấy vợ sẽ đến các giếng nước nơi những cô gái trẻ thường đến lấy nước; và người ta cho rằng những phụ nữ có tiếng xấu cũng thường lui tới những nơi như vậy.”
iii.Tóm lại, người phụ nữ này là một nhân vật hấp dẫn. “Bà ấy đã ở độ tuổi chín chắn, và có một quá khứ không mấy tốt đẹp. Bà ấy phù phiếm, sẵn sàng trò chuyện với người lạ, với cái lưỡi nhanh chóng biến những điều nghiêm trọng thành trò đùa; nhưng ẩn giấu dưới hàng đống phù phiếm ô uế, bà ấy sở hữu một lương tâm và một khát khao về một điều gì đó tốt đẹp hơn những gì bà ấy đang có.” (Maclaren)
iv.8Vì môn đồ Ngài đã đi ra phố đặng mua đồ ăn, có lẽ họ đã đi ngang qua bà trên đường vào thị trấn. “Chúng ta có thể chắc chắn rằng ở giai đoạn này của cuộc đời, Phi-e-rơ và những người khác sẽ không bao giờ vì bất kỳ người phụ nữ nào mà chịu rời khỏi đường đi, huống hồ đó là một người Sa-ma-ri và có lẽ là một người có đạo đức lỏng lẻo. Có lẽ bà đã bị đẩy sang một bên hoặc bị bắt phải chờ đợi trong khi đoàn người Ga-li-lê rảo bước qua.” (Boice)
b.7Đức Chúa Jêsus phán rằng: Theo truyền thống, một Ra-bi không được nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng, ngay cả với vợ mình. Việc một người Giu-đa thời đó nhờ vả hay nhận nước uống từ cốc nước của người Sa-ma-ri cũng rất bất thường. Lời yêu cầu của Chúa Giê-su thực sự khiến người phụ nữ ngạc nhiên. Các môn đồ cũng ngạc nhiên khi Chúa Giê-su nói chuyện với bà (Giăng 4:27).
i.“Các Ra-bi Giu-đa nghiêm khắc cấm một Ra-bi Giu-đa chào hỏi phụ nữ nơi công cộng. Một Ra-bi Giu-đa thậm chí không được phép nói chuyện với vợ, con gái hay chị em gái của mình ở nơi công cộng. Thậm chí có những người Pharisi bị gọi là những người ‘Pharisi bầm dập và máu me’ vì họ cứ nhắm mắt khi nhìn thấy một người phụ nữ trên đường phố và vì vậy đã đâm vào tường và nhà!” (Barclay)
c.Hãy cho ta uống: Một số người tưởng tượng rằng Đức Chúa Trời được tôn vinh nhất khi tuyệt đối không có bất kỳ sự tham gia nào của con người. Tuy nhiên, Chúa Giê-su không hề làm giảm đi vinh quang của Ngài khi yêu cầu người phụ nữ Sa-ma-ri giúp đỡ và hợp tác. Trong khi mọi việc hướng đến việc hoàn thành mục đích thiêng liêng, Chúa Cha và Chúa Con đã được tôn vinh nhất qua việc thể hiện tình yêu thương và lòng nhân từ đối với người phụ nữ.
i.Hãy cho ta uống: “ Chúa Giê-xu không phải không biết rằng cách để chinh phục được một linh hồn thường là nhờ đến sự phục vụ của linh hồn đó.” (Godet, được trích dẫn trong Morris)
ii.Trong tất cả những điều này, chúng ta thấy nhiều điều có vẻ nghịch lý trong công việc của Chúa Giê-su.
- Đấng cho sự nghỉ ngơi là người mệt mỏi.
- Đấng Messiah của Israel đang nói chuyện với một người phụ nữ Sa-ma-ri.
- Người có nước sống sẽ xin nước uống từ giếng.
iii.“Ngài cảm thấy rằng quyền năng kỳ diệu của mình phải được sử dụng cho người khác và cho công trình vĩ đại của mình; nhưng đối với bản thân Ngài, nhân tính của ông phải chịu đựng sự yếu đuối của chính nó, nó phải chịu đựng những thử thách của chính nó: vì vậy Ngài không đưa tay ra để đáp ứng nhu cầu của chính mình.” (Spurgeon)
iv.Có mọi lý do để tin rằng bà đã dâng cho Chúa Giê-su những gì Ngài yêu cầu, và bà đã hỏi câu hỏi trong Giăng 4:9 khi Chúa Giê-su đang uống nước, hoặc sau khi Chúa Giê-su uống nước từ giếng.
d.9Người đàn bà Sa-ma-ri thưa rằng: Ủa kìa! Ông là người Giu-đa, mà lại xin uống nước cùng tôi, là một người đàn bà Sa-ma-ri sao? (Số là, dân Giu-đa chẳng hề giao thiệp với dân Sa-ma-ri.) Ngay lập tức, người phụ nữ ấy cảm kích trước sự thân thiện của Chúa Giê-su. Thật bất thường khi bà nghe một người Giu-đa chào hỏi tử tế, bởi vì nói chung, dân Giu-đa chẳng hề giao thiệp với dân Sa-ma-ri.
i.Giăng cảm thấy điều này đã được hiểu rõ vào thời của ông đến nỗi ông không cần giải thích thêm. “Mối thù chết người tồn tại giữa hai dân tộc này thì ai cũng biết. Người Giu-đa nguyền rủa họ, và tin rằng họ đáng bị nguyền rủa. Mong muốn thương xót nhất của họ đối với người Sa-ma-ri là không cho họ dự phần vào sự sống lại; hay nói cách khác, là để họ bị tiêu diệt.” (Clarke)
ii.Vì nhiều lý do, người phụ nữ này hẳn đã bị hầu hết các nhà lãnh đạo tôn giáo vào thời Chúa Giê-su khinh miệt. Bà là một phụ nữ, một người Sa-ma-ri, và là một người phụ nữ có tiếng xấu. Tuy nhiên, trong cuộc phỏng vấn với Ni-cô-đem, Giăng đã cho chúng ta thấy, Chúa Giê-su có điều gì đó muốn nói với giới lãnh đạo tôn giáo. Trong cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Sa-ma-ri bên giếng nước, Giăng đã cho chúng ta thấy, Chúa Giê-su có điều gì đó muốn nói với những người bị giới lãnh đạo tôn giáo khinh miệt.
4.(10-12) Chúa Giêsu làm cho người phụ nữ chú ý đến nước sống.
a.10Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ví bằng ngươi biết sự ban cho của Đức Chúa Trời, và biết người nói: “Hãy cho ta uống” là ai, thì chắc ngươi sẽ xin người cho uống, và người sẽ cho ngươi nước sống2: Chúa Giêsu đã lôi kéo người phụ nữ vào cuộc trò chuyện, khiến bà tò mò về nhiều điều.
- Ngài khiến bà tò mò về những điều của CHÚA (Ví bằng ngươi biết sự ban cho của Đức Chúa Trời).
- Ngài khiến bà tò mò về việc Chúa Jesus là ai (và biết người nói: “Hãy cho ta uống” là ai).
- Ngài khiến bà tò mò về điều Ngài có thể ban cho bà (NGƯỜI sẽ cho ngươi nước sống).
i.Có một nguyên tắc liên quan đến cụm từ Ví bằng ngươi biết … ngươi sẽ xin người: Nếu bạn biết nhiều hơn, bạn sẽ cầu nguyện nhiều hơn.
ii.Có một nguyên tắc khác đang hoạt động: Chúa Giê-su thường nói với chúng ta như thể chúng ta có tâm linh hoặc hiểu biết hơn thực tế. Ngài làm điều này một cách có chủ đích.
b.NGƯỜI sẽ cho ngươi nước sống: Thời xưa, người ta gọi nước suối là nước hằng sống vì nó dường như sống động khi phun lên từ lòng đất. Thoạt nhìn, có vẻ như Chúa Giê-su đang nói với người phụ nữ này về một dòng suối đang chảy gần đó. Nhưng Chúa Giê-su đã chơi chữ với cụm từ “nước hằng sống”, bởi vì Ngài muốn nói đến thứ nước thiêng liêng có thể giải tỏa cơn khát thiêng liêng và ban sự sống.
i.“Trong Cựu Ước, nước sống đôi khi được liên kết với Đức Giê-hô-va. Ngài được gọi là ‘nguồn nước sống’ (Giê-rê-mi 2: 13Dân ta đã làm hai điều ác: Chúng nó đã lìa bỏ ta, là NGUỒN3 nước sống, mà tự đào lấy hồ, thật, hồ nứt ra, không chứa nước được, 17:13Hỡi Đức Giê-hô-va, là sự trông cậy của Y-sơ-ra-ên, những kẻ nào bỏ Ngài đều sẽ bị xấu hổ! Những kẻ lìa khỏi ta sẽ bị ghi trên đất, vì họ đã bỏ suối nước sống(nguồn nước sống BHĐ), tức là Đức Giê-hô-va.).” (Morris)
ii.“Lễ nghi (liturgy|Phụng vụ) của người Sa-ma-ri (phải thừa nhận là muộn hơn nhiều) trong Ngày lễ Chuộc tội nói về Taheb (Taheb đối với người Sa-ma-ri tương đương với Đấng cứu thế Giu-đa), ‘Nước sẽ chảy ra từ những chiếc thùng của Ngài’ (ngôn ngữ mượn từ lời sấm của Balaam trong Dân số ký 24:7 BHĐ Nước từ trong thùng chảy tràn ra, Hạt giống của người được dư dật nước, Vua người sẽ vượt trội A-gát, Vương quốc người sẽ được tôn cao).” (Bruce)
c.11Người đàn bà thưa: Hỡi Chúa, Chúa không có gì mà múc, và giếng thì sâu, vậy bởi đâu có nước sống ấy?: Khi vào thành, các môn đồ có lẽ đã mang theo chiếc túi da dùng làm gàu để múc nước.
d.12Tổ phụ chúng tôi là Gia-cốp để giếng nầy lại cho chúng tôi, chính người uống giếng nầy, cả đến con cháu cùng các bầy vật người nữa, vậy Chúa há lớn hơn Gia-cốp sao? Thật khó để biết liệu người phụ nữ hỏi một câu hỏi chân thành, hay bà chỉ là một kẻ chỉ trích cay độc. Tất cả tùy thuộc vào giọng điệu của bà. Việc bà đã tin Chúa vào cuối cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su có thể cho thấy đó là một câu hỏi chân thành.
5.(13-15) Chúa Giêsu mô tả hiệu quả của nước sống mà Ngài ban tặng.
a.13Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi: Chúa Giê-su biết rằng người phụ nữ này – cũng như mọi người trong làng – phải đến giếng này hằng ngày để thỏa cơn khát tự nhiên. Chúa Giê-su dùng hình ảnh cơn khát để diễn tả nhu cầu và khát khao tâm linh mà mọi người đều có.
b.14anhưng uống NƯỚC ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa.: Chúa Giê-su đã đưa ra một lời đề nghị tuyệt vời. Điều Ngài ban tặng – cho người phụ nữ này và cho bất kỳ ai muốn uống – là một điều mang lại sự thỏa mãn lâu dài. Điều quan trọng là hãy uống NƯỚC mà Chúa Giê-su sẽ ban cho.
i.Con người thường cố gắng thỏa mãn cơn khát bên trong do Chúa tạo ra bằng nhiều cách, hoặc bằng bất cứ điều gì ngoại trừ điều Chúa Giê-su ban tặng. Con người khao khát – họ khát vọng, họ mong mỏi, họ tìm kiếm, họ vươn tới; nhưng chỉ những gì Chúa Giê-su ban tặng mới thỏa mãn tận đáy lòng và tâm hồn con người.
ii.Uống và khát là những hình ảnh phổ biến về sự chu cấp của Đức Chúa Trời và nhu cầu tâm linh của con người. Uống là một hành động, nhưng là một hành động tiếp nhận – giống như đức tin, nó là việc làm, nhưng bản thân nó không phải là một việc làm xứng đáng để được công đức.
iii.“Một người khát nước làm gì để giải cơn khát? Anh ta uống. Có lẽ không có cách nào diễn tả đức tin trong toàn bộ Lời Chúa tốt hơn thế. Uống là tiếp nhận – là uống một ngụm nước tươi mát – và chỉ vậy thôi. Khuôn mặt của một người có thể không được rửa sạch, nhưng anh ta vẫn có thể uống; anh ta có thể là một nhân vật rất kém cỏi, nhưng một ngụm nước sẽ làm anh ta hết khát. Uống là một việc dễ dàng đến kinh ngạc, thậm chí còn đơn giản hơn cả việc ăn.” (Spurgeon, Tin Mừng Cho Những Linh Hồn Khát Nước)
iv.Có người có thể phản đối: “Tôi đã uống những gì Chúa Giê-su ban tặng, vậy mà tôi lại thấy khát và trống rỗng.” Câu trả lời rất đơn giản: hãy uống lại! Không phải một ngụm Chúa Giê-su duy nhất thỏa mãn mãi mãi, mà là sự kết nối liên tục với Ngài.
c.14bNước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời: Hiệu quả của nước này không chỉ làm thỏa cơn khát của người uống, mà còn tạo ra điều tốt lành, là điều ban sự sống trong lòng người uống. Nó trở thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời.
d.15Người đàn bà thưa: Lạy Chúa, xin cho tôi nước ấy, để cho tôi không khát và không đến đây múc nước nữa: Câu trả lời của người phụ nữ Sa-ma-ri tuy hợp lý nhưng lại không mang tính tâm linh. Bà muốn tránh việc phải đến giếng mỗi ngày Cứ như thể bà đang nói: “Lạy Chúa Giê-su, nếu Ngài muốn cho cuộc sống của con dễ dàng và tiện lợi hơn, thì con xin hết lòng. Xin Ngài ban cho con!”
6.(16-19) Chúa Giêsu nói về cuộc sống tội lỗi của bà.
a.16Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, gọi chồng ngươi, rồi trở lại đây: Đây không phải là một yêu cầu lạ lùng. Trong cuộc trò chuyện công khai kéo dài này với người phụ nữ, Chúa Giê-su đã vượt qua ranh giới của sự phù hợp văn hóa. Cuộc trò chuyện sẽ phù hợp hơn về mặt văn hóa nếu có sự hiện diện của chồng người phụ nữ.
b.Tôi không có chồng…bạn đã có năm đời chồng 17 Người đàn bà thưa rằng: Tôi không có chồng. Đức Chúa Jêsus lại phán: Ngươi nói rằng: Tôi không có chồng, là phải lắm; 18a vì ngươi đã có năm đời chồng: Người phụ nữ tuyên bố mình không có chồng – về mặt kỹ thuật thì đúng, nhưng Chúa Giê-su biết – một cách siêu nhiên – rằng còn nhiều điều hơn thế nữa trong câu chuyện về lịch sử hôn nhân của người phụ nữ.
i.“Đấng Christ có nhiều cánh cửa khác nhau để bước vào tâm hồn mỗi người. Với một số người, Ngài bước vào bằng sự hiểu biết; với nhiều người, Ngài bước vào bằng tình cảm. Với một số người, Ngài đến bằng con đường dẹp sợ hãi; với một số người khác, Ngài đến bằng con đường hy vọng; và với người phụ nữ này, Ngài đến bằng con đường lương tâm của bà.” (Spurgeon)
c.18bcòn người mà ngươi hiện có, chẳng phải là chồng ngươi; điều đó ngươi đã nói thật vậy: Chúa Giê-su nêu ra vấn đề khó xử này vì đời sống tội lỗi của bà cần được đối chất. Người phụ nữ này phải quyết định xem mình yêu điều gì hơn: tội lỗi của mình hay Đấng Mê-si-a.
i.Khi Chúa Giê-su nói rằng người đàn ông mà bà sống chung “chẳng phải là chồng ngươi”, Chúa Giê-su cho thấy rằng sống chung và hôn nhân không phải là một. Chúa Giê-su cũng cho thấy rằng việc ai đó gọi một mối quan hệ là hôn nhân không có nghĩa là Chúa Giê-su coi đó là hôn nhân.
ii.“Tôi tin rằng lời giải thích đúng đắn nhất là coi lời yêu cầu này từ Chúa Giê-xu là bước đầu tiên để đáp ứng yêu cầu của bà: “15xin cho tôi nước ấy” Công việc đầu tiên của Thánh Linh Đức Chúa Trời, và của Đấng đã phán ở đây trong sự trọn vẹn của Thánh Linh đó, là cáo trách về tội lỗi.” (Alford)
d.19Người đàn bà thưa rằng: Lạy Chúa, tôi nhìn thấy Chúa là một đấng tiên tri: Đây là một nhận xét hiển nhiên từ người phụ nữ. Chắc hẳn bà rất ngạc nhiên; có lẽ sửng sốt khi biết Chúa Giê-su có sự hiểu biết siêu nhiên về cuộc đời bà.
i.“Sẽ tốt hơn nếu bà nhận ra rằng mình là một tội nhân.” (Spurgeon)
7.(20-26) Người phụ nữ Sa-ma-ri và Chúa Giê-su thảo luận về việc thờ phượng.
a.20Tổ phụ chúng tôi đã thờ lạy trên hòn núi nầy; còn dân Giu-đa lại nói rằng nơi đáng thờ lạy là tại thành Giê-ru-sa-lem: Có thể đây thực sự là nguồn gốc gây nhầm lẫn và là trở ngại cho bà, nhưng có nhiều khả năng đây chỉ là một sự trốn tránh, cố gắng tránh né vấn đề liên quan đến nhiều người chồng trước của bà và người chồng hiện tại không phải chồng của bà.
i.Nếu bà ấy đưa ra một lập luận về những nơi thờ phượng ở đây, Chúa Jesus cũng không mắc bẫy. Chúa Jesus quan tâm đến việc chinh phục một linh hồn hơn là chiến thắng một cuộc tranh luận.
b.21Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi người đàn bà, hãy tin ta, giờ đến, khi các ngươi thờ lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy, cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem: Chúa Giê-su chỉ cho bà thấy thời điểm mà sự thờ phượng sẽ không còn tập trung vào địa điểm (không phải Giêrusalem hay núi Ga-ri-xim). Công trình vĩ đại hơn của Chúa Giê-su sẽ mang đến một sự thờ phượng vĩ đại hơn, thiêng liêng hơn.
i.Dods đã nói về lời hứa này, “Một trong những lời tuyên bố vĩ đại nhất mà Chúa chúng ta từng đưa ra; và dành cho một người phụ nữ tội lỗi.”
ii.“Lời tiên tri về những kẻ thờ phượng thật, mặc dù bao hàm ý nghĩa rộng hơn là toàn thể nhân loại, nhưng chủ yếu có thể được hiểu là lời tiên tri về sự thành công của Phúc Âm tại Sa-ma-ri, Công vụ 8:1-26.” (Alford)
c.22Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến: Người Sa-ma-ri tin rằng Môi-se đã cho xây một bàn thờ trên núi Ga-ri-xim, ngọn núi phước lành – đây là lý do chính đáng cho hệ thống thờ phượng của họ trên ngọn núi đó. Nhưng giống như mọi đức tin cố gắng kết hợp các yếu tố của các tôn giáo khác nhau, họ thờ phượng điều họ không biết.
i.22Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết: “Cả chữ ‘các ngươi’ và chữ ‘chúng ta’ của Ngài đều mang tính nhấn mạnh. Ngài đặt người Giu-đa và người Sa-ma-ri vào sự tương phản rõ rệt. Và Ngài kết hợp chính mình một cách rõ ràng với người Giu-đa.” (Morris)
ii.Người Sa-ma-ri cũng chỉ chấp nhận năm sách đầu tiên của Kinh Thánh Hê-bơ-rơ, và bác bỏ phần còn lại. “Người Sa-ma-ri lấy bao nhiêu tùy thích trong Kinh Thánh và không để ý đến phần còn lại.” (Barclay)
d.23Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. 24 Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy. 25 Người đàn bà thưa: Tôi biết rằng Đấng Mê-si (nghĩa là Đấng Christ) phải đến; khi Ngài đã đến, sẽ rao truyền mọi việc cho chúng ta. : Với những lời này, Chúa Giê-su đã mô tả nền tảng cho sự thờ phượng thật: không phải ở những nơi chốn và hình thức bề ngoài, mà là ở trong tâm thần và lẽ thật.
i.Thờ phượng bằng tâm linh có nghĩa là bạn quan tâm đến thực tại tâm linh, không quan tâm nhiều đến địa điểm hay của lễ hy sinh bên ngoài, sự thanh tẩy và lễ vật.
ii.Thờ phượng trong chân lý|lẽ thật nghĩa là bạn thờ phượng theo toàn bộ ý chỉ của Lời Chúa, đặc biệt là dưới ánh sáng của sự mặc khải Tân Ước. Điều này cũng có nghĩa là bạn đến với Chúa trong chân lý|lẽ thật, chứ không phải giả vờ hay phô trương tâm linh.
e.26 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta, người đang nói với ngươi đây, chính là Đấng đó: Mặc dù người phụ nữ này là một tội nhân, Chúa Giê-su đã bày tỏ chính mình cho bà. Chúa Giê-su bày tỏ chính mình cho những người tội lỗi.
8.(27-30) Người phụ nữ kể lại cho hàng xóm nghe.
a.27Khi đó, môn đồ tới, đều sững sờ về Ngài nói với một người đàn bà; nhưng chẳng ai hỏi rằng: Thầy hỏi người ấy điều chi? Hay là: Sao thầy nói với người?: Các môn đồ ngạc nhiên khi thấy Chúa Giê-su vượt quá giới hạn văn hóa khi nói chuyện dài với người phụ nữ Sa-ma-ri. Tuy nhiên, có lẽ vì cảm thấy điều đó là đúng đắn và phù hợp, họ đã không chất vấn Chúa Giê-su về điều này.
i.nhưng chẳng ai hỏi rằng: “Sự im lặng của họ là do lòng tôn kính. Họ đã biết rằng Ngài có lý do cho hành động của mình, những lý do có thể không nằm ngoài sự hiểu biết.” (Dods) “Họ đã học đủ để biết rằng, mặc dù Chúa Giê-su không phải lúc nào cũng tôn trọng các quy ước của các Ra-bi Giu-đa, nhưng Ngài có lý do chính đáng cho những gì Ngài làm.” (Morris)
b.28Người đàn bà bèn bỏ cái vò của mình lại và vào thành, nói với người tại đó rằng: Có lẽ cảm nhận được sự im lặng ngượng ngùng của các môn đồ, người phụ nữ dừng cuộc trò chuyện với Chúa Giêsu và quay trở lại thành Si-kha. Bà rời đi, lòng đầy ấn tượng về thời gian ở bên Chúa Giêsu (và tin chắc mình sẽ quay lại với Người) đến nỗi bà bèn bỏ cái vò của mình lại bên giếng.
i.Cái vò nước bị bỏ lại4 là một vật nhỏ mà người chứng kiến tận mắt còn nhớ. Là một trong những môn đồ chứng kiến sự việc này, Giăng đã nhớ rất rõ sự kiện này.
c.29Hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm; ấy chẳng phải là Đấng Christ sao? Chúa Giê-su đã gây ấn tượng mạnh mẽ đến nỗi bà buộc phải nói với những người trong thành phố của mình rằng họ nên đến giếng nước và gặp Chúa Giê-su. Chúa Giê-su đã gây ấn tượng và thu hút bà, mặc dù Ngài đã đối chất với bà về tội lỗi của bà (mọi điều tôi đã làm).
i.Người phụ nữ Sa-ma-ri vô cùng cảm kích trước tình yêu thương của Chúa Giê-su đến nỗi giờ đây bà tìm đến những người dân làng của mình, ngay cả khi trước đây họ đã đối xử với bà như một kẻ bị ruồng bỏ. “Nếu trước đây bà đã tránh xa những người đồng hương, thì giờ đây bà đã thay đổi; bà phải tìm đến họ và chia sẻ tin tức của mình với họ.” (Bruce)
ii.Người phụ nữ Sa-ma-ri đã quá ấn tượng trước tình yêu của Chúa Giê-su – ngay cả khi Ngài đối mặt với tội lỗi của bà – đến nỗi bà quên mất rằng bà thà để mọi người quên đi mọi điều tôi đã làm. “Sự phóng đại đáng tha thứ này cho thấy ấn tượng sâu sắc mà sự hiểu biết của Chúa Giê-su về đời tư của bà đã để lại cho bà.” (Morris)
iii.Chúa Giê-su đã thể hiện tình yêu thương và sự an toàn đến mức bà cảm thấy an toàn bên Ngài ngay cả khi tội lỗi của bà bị phơi bày. Điều quan trọng đối với những người theo Chúa Giê-su ngày nay là tạo cho mọi người một nơi an toàn để xưng tội, ăn năn và đặt niềm tin nơi Chúa Giê-su.
iv.Toàn bộ quá trình tương tác với Chúa Jesus không để lại cho bà ấn tượng “Ngài ghét tôi” hay “Ngài phán xét tôi” hay “Ngài không muốn tôi ở gần”. Nó để lại cho bà ấn tượng rằng rất có thể, Chúa Jesus chính là Đấng mà Ngài từn tuyên bố: là Đấng Mê-si, Đấng Christ (Ta, người đang nói với ngươi đây, chính là Đấng đó, Giăng 4:26).
v.MỘT NGƯỜI đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm: “Người Giu-đa tin rằng một đặc điểm thiết yếu của Đấng Mê-si là Ngài có thể nói ra những điều thầm kín trong lòng mọi người. Họ tin rằng điều này đã được tiên tri trong Ê-sai 11:2-3 ² Thần của Đức Giê-hô-va sẽ ngự trên Ngài, là thần khôn ngoan và thông sáng, Thần mưu lược và quyền năng, Thần tri thức và kính sợ Đức Giê-hô-va. ³ Ngài vui thích trong sự kính sợ Đức Giê-hô-va. Ngài sẽ không xét xử theo mắt thấy, cũng chẳng phán quyết theo tai nghe. ” (Clarke) Không phải là vô lý khi nghĩ rằng một số người Sa-ma-ri cũng tin những điều tương tự về Đấng Mê-si.
d.30Chúng bèn từ trong thành ra và đến cùng Đức Chúa Jêsus: Lời mời của người phụ nữ đã có hiệu quả. Mọi người đến khi bà kể cho họ nghe Chúa Giê-su là ai và Ngài đã tác động đến cuộc đời bà như thế nào qua cuộc trò chuyện ngắn ngủi của họ.
9.(31-34)Chúa Giêsu dạy các môn đồ về nguồn sức mạnh và sự thỏa mãn của Ngài.
- 31 Song le, môn đồ nài nỉ một bên Ngài mà rằng: Thưa thầy, xin hãy ăn. 32 Ngài đáp rằng: Ta có một thứ lương thực để nuôi mình mà các ngươi không biết. 33 Vậy môn đồ nói với nhau rằng: Có ai đã đem chi cho thầy ăn chăng?: Các môn đồ vào làng Sa-ma-ri để kiếm thức ăn, và muốn Chúa Giê-su ăn những gì họ mang đến cho Ngài.
i.“Người thuộc linh nên quên đi cơn đói, nhưng bạn bè chân chính cũng nên nhắc nhở họ rằng họ nên ăn vì sức khỏe: người lao động nên quên đi sự yếu đuối của mình và tiến bước trong thánh chức; nhưng người nhân đức và chu đáo nên xen vào bằng một lời cảnh báo, và nhắc nhở người nhiệt thành rằng thân xác họ chỉ là cát bụi. Tôi nghĩ các môn đồ đã làm đúng khi nói: ‘Thưa Thầy, xin hãy ăn.‘” (Spurgeon)
ii.Chúa Giê-su không nói rằng thức ăn, đồ uống và sự nghỉ ngơi không quan trọng. Thay vào đó, Ngài muốn các môn đồ hiểu rằng sự sống còn hơn cả những thứ đó; rằng con người không chỉ ăn bằng bánh mà thôi.
iii.Ta có một thứ lương thực để nuôi mình mà các ngươi không biết: “ Các đại từ được sử dụng một cách nhấn mạnh: Ta được tươi mới nhờ nguồn dinh dưỡng, ẩn giấu khỏi các ngươi.” (Dods)
iv.“Trong những lời này, Chúa chúng ta đã tiết lộ bí mật về sức mạnh của Ngài và sự yếu đuối của các môn đồ Ngài.” (Morgan)
b.34Đức Chúa Jêsus phán rằng: Đồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài: Chúa Giê-su có nguồn sức mạnh và sự thỏa mãn lớn hơn cả thức ăn Ngài ăn. Chúa Giê-su giải thích với các môn đồ rằng sự thỏa mãn thực sự của Ngài là làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời và Cha Ngài.
i.Chúa Giê-su không tập trung chủ yếu vào công việc, nhu cầu, chiến lược, kỹ thuật, hay thậm chí là các linh hồn đang cần sự giúp đỡ. Trước hết và trên hết, Ngài tập trung vào việc làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến. Ngược lại, Sa-tan là ví dụ điển hình nhất về một kẻ không muốn ý muốn của Đức Chúa Trời, nhưng lại khẳng định ý muốn của mình chống lại ý muốn của Ngài (Ê-sai 14:12-15).
ii.“Ngài thậm chí không nói, ‘Thức ăn của Ta là làm theo ý Cha Ta.’ Ngài giữ một vị thế thấp hơn vai trò làm con, và chủ yếu tập trung vào sứ mệnh, sự Ngài đến để phục vụ, và vào việc hiến thân hơn vào ý muốn của Chúa” (Spurgeon)
iii.Kinh nghiệm của vô số người khác qua nhiều thế kỷ đã chứng minh lời Chúa Giê-su nói là đúng. Không gì thỏa mãn hơn việc làm công việc của Chúa, bất kể đó là gì đối với từng tín đồ. Mặc dù điều này trái ngược với trực giác và đi ngược lại với bản tính ích kỷ tự nhiên của chúng ta, nhưng nó đúng.
iv.“Người thế gian nghĩ rằng, nếu được tự do theo ý mình, họ sẽ hoàn toàn hạnh phúc, và giấc mơ hạnh phúc của họ ở đời này hay đời sau đều nằm ở chỗ, những mong ước của họ sẽ được thỏa mãn, những khát khao của họ sẽ được đáp ứng, những ước muốn của họ sẽ được đáp ứng. Tất cả đều là sai lầm. Con người sẽ không bao giờ hạnh phúc theo cách này.” (Spurgeon)
v.Chúa Giê-su tìm thấy sự thỏa mãn lớn lao khi làm theo ý Chúa ngay cả khi Ngài mệt mỏi. Thực tế, việc ý thức làm theo ý Chúa đã làm tươi mới Chúa Giê-su đang mệt mỏi. “Cơn khát thể xác (và có lẽ cả cơn đói, từ lúc ban ngày) mà Chúa chúng ta đã từng cảm thấy trước đây, đã và đang được quên lãng trong khi Ngài thực hiện công việc thiêng liêng của Ngài trong tâm hồn người phụ nữ Sa-ma-ri này.” (Alford)
c.34bvà làm trọn công việc Ngài: Chúa Giê-su tìm thấy sự thỏa mãn không chỉ khi bắt đầu công việc của Đức Chúa Trời, mà còn khi hoàn tất nó. Điều này hoàn tất ý tưởng đã bắt đầu trong câu trước.
- Chúa Giêsu đã đầu hàng ý muốn của CHÚA.
- Chúa Giê-su đang thi hành một nhiệm vụ được công nhận.
- Chúa Giê-su đến để làm điều đó.
- Chúa Giê-su đến để hoàn tất công việc của Ngài.
i.34bvà làm trọn công việc Ngài: “Động từ này đồng nghĩa với động từ được dùng trên thập tự giá, khi Chúa Giê-su kêu lên ‘Mọi việc đã hoàn tất’ (Giăng 19:30).” (Morris)
10.(35-38) Chúa Giê-su dạy các môn đồ của Ngài về sự cấp bách của công việc thuộc linh và cơ hội.
a.35Các ngươi há chẳng nói rằng còn bốn tháng nữa thì tới mùa gặt sao? Song ta nói với các ngươi: Hãy nhướng mắt lên và xem đồng ruộng, đã vàng sẵn cho mùa gặt: Đây là một câu tục ngữ hàm ý rằng không có gì phải vội vàng khi làm một việc gì đó, bởi vì mọi việc đều cần thời gian và bạn không thể tránh khỏi việc chờ đợi. Chúa Giê-su không muốn các môn đồ của Ngài có tâm lý này; Ngài muốn họ suy nghĩ và hành động như thể mùa gặt đã sẵn sàng.
i.“Trong tiếng Hy Lạp, cụm từ ‘Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt’ có nhịp điệu gợi ý rằng chúng ta phải làm gì đó với một câu nói phổ biến hoặc tục ngữ.” (Bruce)
ii.“Mùa gặt đã sẵn sàng. Tiền công đã có. Đừng ai chần chừ. Mùa gặt sẽ không chờ đợi.” (Morris)
b.Hãy ngước mắt lên và nhìn xem đồng ruộng, vì chúng đã chín vàng chờ ngày gặt! |BD2020 hãy ngước mắt mình lên và xem các đồng lúa, vì chúng ĐANG TRẮNG sẵn sàng cho mùa gặt! Chúa Giê-su đã dùng ý niệm về lương thực và mùa gặt để truyền đạt những ý niệm thuộc linh. Ý niệm về mùa gặt có nghĩa là có nhiều người sẵn sàng được đón nhận vào Vương quốc Đức Chúa Trời, và các môn đồ nên xem mình là những người thợ gặt trong mùa gặt đó.
i.“Trong lúc Ngài đang nói, người Sa-ma-ri đang rời khỏi thành phố và băng qua cánh đồng đến với Ngài. Lòng sốt sắng của những người mà người Giu-đa coi là xa lạ và bị ruồng bỏ cho thấy họ giống như lúa mì sẵn sàng để gặt.” (Tenney)
ii.Chúa Giê-su cảnh báo các môn đồ đừng nghĩ rằng vẫn còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt. Nếu họ có mắt để thấy, thì mùa gặt đã sẵn sàng rồi – thậm chí còn chín vàng để gặt, ngụ ý rằng lúa đã chín hoàn toàn hoặc chín quá rồi.
iii.Chúng ta nên tin rằng, chúng đã chín vàng để gặt hái! “Hãy trông đợi phước lành hiện tại; hãy tin rằng bạn sẽ có nó; hãy nỗ lực để có được nó, và đừng thỏa mãn cho đến khi bạn có nó.” (Spurgeon)
c.36 Con gặt đã lãnh tiền công mình và thâu chứa hoa lợi cho sự sống đời đời, hầu cho người gieo giống và con gặt được cùng nhau vui vẻ. 37 Vì đây người ta có thể nói rằng: Người nầy thì gieo, người kia thì gặt, là rất phải: Chúa Giê-su đã khuyến khích các môn đồ của Ngài trong công việc cùng làm với Ngài theo ít nhất ba cách.
- Công việc gặt hái của họ sẽ được đền đáp (36Con gặt đã lãnh tiền công mình).
- Công việc tốt lành của họ sẽ tồn tại mãi mãi (thâu chứa hoa lợi cho sự sống đời đời).
- Mọi người làm việc trong mùa gặt sẽ cùng nhau vui vẻ trong công việc.
d.38Ta đã sai các ngươi gặt nơi mình không làm; kẻ khác đã làm, còn các ngươi thì đã vào tiếp lấy công lao của họ: Các môn đồ bây giờ có thể gặt ngay một vụ mùa, và họ đã gặt từ những hạt giống mà họ không gieo.
i.Giăng Báp-tít và Chúa Giê-su đã gieo hạt giống, và ngay lúc đó các môn đồ có cơ hội gặt hái. Nhiều lần, công việc của Chúa diễn ra như thế này – người này gieo, người kia gặt (1 Cô-rinh-tô 3:6-8 6 Tôi đã trồng, A-bô-lô đã tưới, nhưng Đức Chúa Trời đã làm cho lớn lên. 7 Vậy, người trồng, kẻ tưới, đều không ra gì, song Đức Chúa Trời là Đấng làm cho lớn lên. 8 Người trồng, kẻ tưới, đều bằng nhau; ai nấy sẽ nhận phần thưởng tùy theo việc mình đã làm.).
11.(39-42) Nhiều người Sa-ma-ri tin vào Đấng Cứu Thế của thế gian.
a.39Có nhiều người Sa-ma-ri ở thành đó tin Ngài, vì cớ lời đàn bà đã làm chứng về Ngài mà rằng: Ngài đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm: Lúc đó, họ chưa đủ hiểu biết để tin cậy Chúa Giê-su và công việc của Ngài trên thập tự giá; nhưng họ chắc chắn có thể tin Ngài là Đấng Mê-si-a của Đức Chúa Trời. Họ đã tin, và vì người phụ nữ đã làm chứng (BHĐ).
b.Ngài đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm: Người phụ nữ ngạc nhiên không chỉ vì Chúa Giê-su biết rõ sự thật về cuộc đời bà, mà Ngài còn yêu thương bà ngay cả khi biết rõ sự thật về cuộc đời bà. Đôi khi chúng ta sợ rằng nếu ai đó biết hết mọi điều tôi đã làm, họ sẽ không thể yêu thương chúng ta, nhưng Chúa Giê-su đã yêu thương người phụ nữ này.
c.40Vậy, các người Sa-ma-ri đã đến cùng Ngài, xin Ngài vào trọ nơi mình; Ngài bèn ở lại đó hai ngày: Điều này thật đáng chú ý khi xét đến quan điểm của hầu hết người Giu-đa thời Chúa Giê-su về người Sa-ma-ri. Họ coi Sa-ma-ri và người Sa-ma-ri là nơi và người cần tránh xa nếu có thể, và nếu cần phải đi qua Sa-ma-ri thì nên đi càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên, Chúa Giê-su bèn ở lại đó hai ngày.
i.“Việc người Sa-ma-ri mời một giáo viên Giu-đa đến ở cùng họ mà không sợ bị từ chối cho thấy Ngài đã hoàn toàn chiếm được lòng tin của họ.” (Bruce)
ii.“Trong thời gian lưu lại, lý luận và lời giảng của Ngài đã làm tăng đáng kể số lượng tín đồ và bổ sung cho công việc của người phụ nữ.” (Trench)
d.41Khi đã nghe lời Ngài rồi, người tin Ngài càng đông hơn nữa: Trong những ngày Chúa Giê-su ở giữa dân Sa-ma-ri, Ngài dạy dỗ họ, và người tin Ngài càng đông hơn nữa.
i.“Chúng ta có thể tự hỏi liệu đây có phải là ‘thành phố Sa-ma-ri’ giống như thành phố được Phi-líp truyền bá phúc âm vài năm sau đó hay không [Công vụ 8:5].” (Bruce)
e.42Họ nói với người đàn bà rằng: Ấy không còn phải vì điều ngươi đã nói với chúng ta mà chúng ta tin đâu; vì chính chúng ta đã nghe Ngài, và biết rằng chính Ngài thật là Cứu Chúa của thế gian: Lời chứng đáng chú ý của người phụ nữ bên giếng đã kết nối những người Sa-ma-ri ở Si-kha với Chúa Giê-su; nhưng khi nghe Ngài, họ đã có được đức tin cá nhân sâu sắc hơn vào Chúa Giê-su là Đấng Mê-si (Đấng Christ) và là Đấng Cứu Thế của thế gian.
i.Cứu Chúa của thế gian: “Không chỉ Cứu Chúa của người Giu-đa, mà còn Cứu Chúa của người Sa-ma-ri và của toàn thể thế giới dân ngoại.” (Clarke)
ii.“Danh hiệu ‘Đấng Cứu Thế’ tất nhiên được gợi ra từ lời dạy của chính Chúa Jesus trong hai ngày Ngài ở đó.” (Dods)
B.Chữa lành con trai của viên quan thị vệ: dấu hiệu thứ hai.
1.(43-46a) Chúa Giêsu trở về Galilê.
a.43Khỏi hai ngày ấy, Đức Chúa Jêsus từ đó đi qua xứ Ga-li-lê 44 (vì chính Ngài đã phán rằng một người tiên tri chẳng bao giờ được tôn kính trong quê hương mình): Ga-li-lê là quê hương của Chúa Giê-su – nơi Ngài lớn lên. Vì những người này quá quen thuộc với Chúa Giê-su, họ đã không tôn kính Ngài đúng mức. Qua đó, chúng ta thấy rằng họ thực sự không quen thuộc với Chúa Giê-su; nếu họ quen thuộc, họ đã càng tôn kính Ngài hơn nữa.
i.Có một sự quen thuộc sai lầm với Chúa Giê-su; một cảm giác nguy hiểm rằng chúng ta biết tất cả về Ngài. Cảm giác nguy hiểm này dẫn đến việc thiếu tôn kính Chúa Giê-su.
ii.Thật khó để biết liệu Giăng có ý định liên kết nơi Chúa Giê-su không được chào đón là Giu-đê hay Ga-li-lê. Có thể lập luận cho cả hai; rõ ràng các sách Phúc Âm khác đã trích dẫn nguyên tắc này và liên hệ nó với Ga-li-lê (Ma-thi-ơ 13:57 và Mác 6:4).
iii.“Vì vậy, tự mình Ngài đến Galilê để tránh sự nổi tiếng, làm chứng rằng quê hương của Ngài (Galilê) là nơi mà với tư cách là một nhà tiên tri, Ngài ít có khả năng được tôn vinh nhất.” (Alford)
b.45 Khi đã đến xứ Ga-li-lê, Ngài được dân xứ ấy tiếp rước tử tế, bởi dân đó đã thấy mọi điều Ngài làm tại thành Giê-ru-sa-lem trong ngày lễ; vì họ cũng có đi dự lễ. 46 Vậy, Ngài lại đến thành Ca-na, trong xứ Ga-li-lê, là nơi Ngài đã hóa nước thành rượu.: Người Giu-đa ở Ga-li-lê có thói quen lên Giê-ru-sa-lem để dự lễ (ứng nghiệm Xuất Ê-díp-tô Ký 23:14-17). Lần đặc biệt này, họ nhớ lại mọi việc Chúa Giê-su đã làm tại Giê-ru-sa-lem.
i.Có lẽ họ nhớ lại lúc Chúa Giê-su lật bàn của những người buôn bán ở sân ngoài đền thờ (Giăng 2:13-27). Chúa Giê-su cũng đã báo trước về sự phục sinh của chính Ngài (Giăng 2:18-22) và thực hiện nhiều dấu lạ khác không được nêu rõ khi ở Giê-ru-sa-lem (Giăng 2:23-25).
ii.“Sự nhiệt thành của người Ga-li-lê không có cơ sở vững chắc. Nó dựa trên những điều kỳ diệu phát sinh từ việc họ chứng kiến các dấu lạ, chứ không phải trên sự nhận thức rằng Chúa Giê-su thực sự là Đấng Christ, Đấng Cứu Thế của thế gian. Chính việc họ chấp nhận Ngài, theo một cách nào đó, đã là một sự chối bỏ. Họ đã dành cho Ngài một sự tôn vinh nào đó, nhưng đó không phải là sự tôn vinh mà Ngài đáng được hưởng.” (Morris)
2.(46b-48) Người quý tộc và đứa con trai bị bệnh.
a.46bNguyên ở tại thành Ca-bê-na-um, có một quan thị vệ kia, con trai người mắc bệnh: Vào thời điểm này, Chúa Giê-su đã ở Ca-bê-na-um (Ma-thi-ơ 4:13 và Giăng 2:12). Mặc dù Chúa Giê-su đang ở Ca-na (Giăng 4:46a), người quý tộc đã đi khoảng 20 dặm (32 km) từ Ca-bê-na-um đến Ca-na.
i.một quan thị vệ kia: “Theo nghĩa đen, ‘ một người hoàng gia ‘… người đàn ông này có thể là một sĩ quan của Hê-rốt An-ti-pa.” (Alford) các bản dịch tiếng việt: “quan đại thần” (Bản nhuận chánh); “quan hoàng gia” (BHĐ, BD2020); “quan của triều đình” (BD2011)
b.47Quan đó nghe Đức Chúa Jêsus đã từ xứ Giu-đê đến xứ Ga-li-lê, bèn tìm đến và xin Ngài xuống đặng chữa cho con mình gần chết: Vị quan quý tộc này là một trong nhiều bậc cha mẹ đã đến với Chúa Giê-su thay mặt cho một đứa con đau yếu. Rõ ràng ông đến với lòng nhiệt thành và sự khẩn thiết của một người cha có con bị bệnh – và đang hấp hối (BDM2002).
i.“Thật nhạt nhẽo và phù phiếm biết bao khi tất cả những cung điện hào nhoáng vang lên, bằng giọng nói mà ông rất yêu thích, những tiếng kêu hoang dại và mê sảng của cơn sốt dữ dội!” (Morrison)
c.48Đức Chúa Jêsus phán rằng: Nếu các ngươi không thấy phép lạ và điềm lạ, thì các ngươi chẳng tin!: Chúa Giê-su đã khiển trách những kẻ trông cậy vào dấu lạ và phép lạ trước khi họ tin. Có vẻ như Chúa Giê-su đã tỏ ra khắt khe với người đàn ông muốn con trai mình được chữa lành, nhưng Ngài đã gặp nhiều người ở Ga-li-lê chỉ quan tâm đến phép lạ của Ngài – vì vậy Ngài đã tra hỏi người đàn ông này.
i.Các dấu hiệu và phép lạ có thể dẫn dắt một người đến niềm tin vào Chúa và có thể xác nhận một sứ giả trên trời – nhưng chúng cũng có thể không có tác dụng gì đối với một người và Satan cũng có thể sử dụng các dấu hiệu và phép lạ dối trá (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:9).
ii.Những dấu lạ và phép lạ từ Chúa rõ ràng là tốt lành, nhưng chúng không nên là nền tảng đức tin của chúng ta. Chúng ta không nên dựa vào chúng để chứng minh Chúa cho chúng ta. Bản thân những dấu lạ và phép lạ không thể thay đổi được lòng người; dân Y-sơ-ra-ên đã chứng kiến những dấu lạ kỳ diệu trên núi Si-nai và thậm chí còn nghe được chính tiếng nói của Chúa (Xuất Ê-díp-tô Ký 19:16-20:1), vậy mà chỉ một thời gian ngắn sau, họ lại thờ lạy một con bê vàng (Xuất Ê-díp- tô Ký 32:1-6).
iii.“Những lời này ngụ ý sự tương phản giữa người Sa-ma-ri, những người tin vì lời của Ngài, và người Giu-đa không tin nếu không nhờ các dấu lạ và phép lạ.” (Alford)
3.(49-50) Chúa Giêsu tuyên bố con trai của viên quan thị vệ được chữa lành, và viên quan thị vệ tin vào lời tuyên bố đó.
a.49Quan thị vệ trả lời rằng: Lạy Chúa, xin Chúa xuống trước khi con tôi chưa chết!: Người này là một quan chức cao cấp, một người có địa vị và địa vị cao. Mọi danh vọng và địa vị của ông ta dường như chẳng là gì so với nhu cầu lớn lao của ông ta. Ông ta đã trải qua sự đau khổ đến cùng cực.
b.Lạy Chúa, xin Chúa xuống trước khi con tôi chưa chết! Trong những lời trước, dường như Chúa Giêsu đã ngăn cản viên quan thị vệ này cầu xin một phép lạ. Tuy nhiên, lời cầu xin này cho thấy vị quan thị vệ đã hiểu đúng rằng Chúa Giêsu không có ý định ngăn cản việc cầu xin Ngài ban phép lạ, mà chỉ muốn ngăn cản một đức tin chỉ tìm kiếm phép lạ.
i.Vị quan quyền quý này không cầu xin Chúa Giê-su vì địa vị cao quý của mình, mà vì nhu cầu cấp thiết của con trai ông. Việc đến với Chúa Giê-su như một người quyền thế và quan trọng sẽ chẳng mang lại lợi ích gì cho ông trước mặt Chúa.
ii.“Ông không hề viện cớ công trạng, mà chỉ viện cớ sự khốn khổ của trường hợp này. Ông không viện cớ rằng cậu bé xuất thân từ dòng dõi quý tộc – điều đó sẽ rất tệ nếu cầu xin Chúa Giê-su; ông cũng không viện cớ rằng cậu bé là một đứa trẻ đáng yêu – điều đó sẽ là một lập luận tệ hại; nhưng ông viện cớ rằng cậu bé đang ở bên bờ vực cái chết. Chính sự cùng cực của ông là lý do khiến ông khẩn thiết: đứa trẻ đang cận kề cái chết; vì vậy, cha cậu bé cầu xin cánh cửa lòng thương xót được mở ra.” (Spurgeon)
c.50Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, con của ngươi sống. Người đó tin lời Đức Chúa Jêsus đã phán cho mình, bèn đi: Chúa Giê-su đã thử thách đức tin của người đàn ông này một cách nghiêm khắc, buộc ông phải tin vào lời Chúa Giê-su mà thôi chứ không phải bất kỳ sự chứng minh phép lạ nào bên ngoài. Bất chấp thử thách, người đàn ông vẫn tin vào lời Chúa Giê-su và rời đi (NIV). Vị quý tộc đã chứng minh rằng đức tin thật chỉ đơn giản là tin vào lời Chúa Giê-su.
i.“Việc chữa lành cho đứa trẻ là điều xứng đáng với sự chăm sóc của Ngài; điều cần thiết hơn nhiều là Ngài phải huấn luyện và dẫn dắt người cha đến với đức tin.” (Maclaren)
ii.“Nếu Chúa chúng ta đi cùng ông, như ông mong muốn, thì sự vô tín của ông không thể được loại bỏ hoàn toàn; vì ông vẫn nghĩ rằng quyền năng của Chúa chúng ta không thể lan từ Ca-na đến Ca-bê-na-um: để phá hủy sự vô tín của ông ngay lập tức, và đưa ông đến với đức tin trọn vẹn của quyền năng tối cao của Ngài, Ngài chữa lành cho nó, mặc dù dường như vắng mặt, bằng năng lượng mà Ngài dùng để lấp đầy cả trời và đất.” (Clarke)
d.con của ngươi sống: Chúa Giê-su không hề sử dụng bất kỳ hiệu ứng kịch tính nào trong việc chữa lành này. Nhiều người muốn thấy những hiệu ứng kịch tính trong công việc của Chúa; và đôi khi Chúa ban cho họ những điều đó. Đức tin thật có thể cảm nhận và chấp nhận sự thể hiện bên ngoài của phép lạ, nhưng không đòi hỏi điều đó.
4.(51-54) Người quý tộc phát hiện ra con trai mình đã được chữa lành và khi nào thì điều đó xảy ra.
a.51Người đang đi dọc đàng, các đầy tớ người đến đón mà rằng. Con trai chủ sống. 52 Người bèn hỏi họ con trai mình đã thấy khá nhằm giờ nào. Họ trả lời rằng: Bữa qua, hồi giờ thứ bảy, [Nghĩa là một giờ chiều] Nghĩa là một giờ chiều
cơn rét lui khỏi. Vị quý tộc đã tin điều đó trước khi có bằng chứng, nhưng bằng chứng rõ ràng được hoan nghênh. Ta có thể tưởng tượng được tin này tuyệt vời đến thế nào đối với vị quý tộc, và biết rằng, đó cũng chính là lúc Chúa Giê-su phán với ông: “con của ngươi sống”
i.Bằng chứng của phép lạ này rất rõ ràng. Khi Chúa Giê-su tuyên bố cậu bé được chữa lành, thì thực tế là cậu bé đã được chữa lành – và được chứng minh bằng một cách rõ ràng.
ii.Theo lời kể của những người hầu, việc này xảy ra “ Hôm qua, vào giờ thứ bảy.” Điều này có nghĩa là vị quan này đã từ từ trở về nhà mình ở Ca-bê-na-um sau cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu ở Cana. Bước chân thong thả của ông là một minh chứng cho đức tin. Trong nỗi sợ hãi, vị quan này chạy từ Ca-bê-na-um đến Cana; nhưng với đức tin, ông đã thả bộ từ Cana trở về Ca-bê-na-um.
iii.“Vị quý tộc tin chắc rằng con mình vẫn còn sống và khỏe mạnh, nên ông không vội vã trở về. Ông không về nhà ngay, như thể ông phải về kịp để tìm một bác sĩ khác, nếu Chúa Giê-xu không thành công; nhưng ông thong thả và bình tĩnh lên đường, tin chắc vào sự thật trong những gì Chúa Giêsu đã phán với mình.” (Spurgeon)
b.53Người cha nhận biết rằng ấy là chính giờ đó Đức Chúa Jêsus đã phán cùng mình rằng: Con của ngươi sống; thì người với cả nhà đều tin: Quyền năng kỳ diệu của Chúa Giê-su đã vun đắp đức tin mạnh mẽ hơn cho cả viên quý tộc lẫn gia đình ông. Trước đây ông đã tin, nhưng giờ đây ông càng tin hơn. Đức tin của ông được củng cố bởi kinh nghiệm cá nhân về quyền năng của Chúa.
i.“Các môn đồ của Ngài đã tin vào Ngài sau khi nước biến thành rượu; người cha và những người còn lại trong gia đình đã tin vào kết quả của việc chữa lành cho cậu bé: và trong cả hai trường hợp, động từ trong bản gốc là một inceptive aorist ‘họ đặt niềm tin vào Ngài’.” (Tasker)
ii.Sẽ không dễ dàng “khi ở triều đình Hê-rốt, việc tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su. Ngài sẽ phải chịu đựng sự chế giễu và cười nhạo; và chắc chắn sẽ có những người nghĩ rằng Ngài hơi điên.” (Barclay)
c.54Ấy là phép lạ thứ hai mà Đức Chúa Jêsus đã làm, khi Ngài từ xứ Giu-đê trở về xứ Ga-li-lê: Trong Phúc âm Giăng, các phép lạ |BHĐ là dấu lạ được đưa ra để dẫn dắt người đọc đến với đức tin (Giăng 20:29-31). Mối quan hệ giữa đức tin và dấu hiệu được thể hiện rõ ràng trong sách Giăng chương 2 và chương 4.
- Dấu hiệu đầu tiên đã thuyết phục các môn đồ của Ngài.
- Dấu hiệu thứ hai đã thuyết phục được một nhà quý tộc Giu-đa và gia đình ông.
- Người Sa-ma-ri tin mà không cần dấu lạ.
i.Hai dấu lạ đầu tiên trong Phúc Âm Giăng đã xảy ra tại Cana xứ Galilêa. Dấu lạ thứ nhất là tại một bữa tiệc cưới hoành tráng nhất từ trước đến nay. Dấu lạ thứ hai liên quan đến thảm kịch tồi tệ nhất từ trước đến nay – bệnh tật và cái chết sắp xảy ra của một đứa trẻ. Chúa Giêsu đều có thật trong cả hai khía cạnh.
1 Tư duy cổ tích, kiếm hiệp, dinh dưỡng cho mê tín
2 Chữ “nước sống” trong BD2011 là “nước hằng sống“, Bản Dịch Mới 2002 là “nước trường sinh“
3 מָקוֹר (ma.qor) fountain | nguồn nước (H4726)
Chữ này xuất hiện 18 lần trong Kinh Thánh.
Ý nghĩa:1) suối, đài phun nước
1a) suối
1a1) nguồn sống, niềm vui, sự thanh lọc (hình)
1b) mắt (hình)
1c) nguồn (của máu kinh nguyệt)
1d) dòng chảy (của máu sau khi sinh con)
4 coi chừng phép lạ giổm: dầu chảy, bụi vàng (ở Bethel church), viên đá quí…