A.Chăm sóc đền tạm.
1.(1-4) Chăm sóc đèn trong đền tạm.
a.1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 2 Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên đem dầu ô-li-ve ép, trong sạch, đặng thắp đèn, để giữ cho đèn cháy luôn luôn.: Các ngọn đèn trong đền tạm – đặt trên chân đèn bằng vàng nguyên chất (Xuất Ê- díp-tô Ký 25: 31-40) – là nguồn sáng duy nhất cho đền tạm. Những ngọn đèn này phải được chăm sóc liên tục, cung cấp dầu ô liu nguyên chất và cắt bấc đèn. Sự chăm sóc này khiến đèn cháy liên tục.
i.3 A-rôn sẽ làm đèn đó trong hội mạc, ngoài bức màn che hòm bảng chứng, hầu cho đèn cháy luôn luôn, từ chiều tối đến sáng mai, trước mặt Đức Giê-hô-va; ấy là một lệ định đời đời cho dòng dõi các ngươi: “ ‘Chứng ngôn’là một thuật ngữ kỹ thuật cho Mười Điều Răn được đặt trong Hòm Giao Ước (Xuất Ê-díp-tô Ký 25: 16 ; 40: 20 ; Phục truyền Luật lệ Ký 10: 2 ; 1 Các Vua 8: 9 ; Hê-bơ-rơ 9: 4).“(Rooker)
ii.4 A-rôn sẽ để các đèn trên chân đèn bằng vàng, cho đèn cháy luôn luôn trước mặt Đức Giê-hô-va: “ Động từ đã được hiểu theo nhiều cách khác nhau: Bản tiếng Anh ngày nay’giữ cho chúng cháy‘; Bản quốc tế mới ’giữ cho đèn’; Bản tiếng Hê-bê-rơ mới’ thiết lập chúng’; Bản tiếng Anh mới ’giữ cho gọn gàng’. Nhưng ý tưởng cơ bản là làm tất cả những gì cần thiết để đảm bảo rằng đèn đang cháy vào đúng thời điểm.“(Peter-Contesse)
iii.4Chân đèn bằng vàng ròng đã trở thành một trong những hình ảnh trường tồn tượng trưng cho Israel và người Hê-bê-rơ. Chân đèn trong đền thờ vào thời Chúa Jesus đã bị quân lính La Mã dưới quyền chỉ huy của Titus chiếm giữ khi Jerusalem bị phá hủy vào năm 70. Một hình ảnh chân đèn đó đã được khắc trên mái vòm ở thành phố Roma để ăn mừng chiến thắng đó. Hình ảnh chân đèn cũng được tìm thấy trong các tác phẩm chạm khắc và tiền xu cổ khác.
b.Từ chiều tối cho đến sáng 4cđèn cháy luôn luôn trước mặt Đức Giê-hô-va: Điều quan trọng là ánh sáng từ đèn dầu phải liên tục chiếu sáng. Chúa không muốn đền tạm của Ngài bị bỏ lại trong bóng tối.
i.Ánh sáng liên tục của đền tạm chỉ về Đấng Messiah sắp đến. Chúa Jesus không bao giờ ngừng là ánh sáng của thế gian (Giăng 8: 12).
- Cũng có một ý nghĩa mà ánh sáng liên tục chiếu rọi hướng đến dân sự của Đức Chúa Trời. Theo một ý nghĩa nào đó, chúng ta cũng là ánh sáng của thế gian (Ma-thi-ơ 5: 14).“ Như ngọn nến trong tay người nội trợ, người quét nhà siêng năng; như ngọn đèn trong tay người trinh nữ đang chờ đợi chú rể; hoặc như ngọn hải đăng trên bờ biển đá.“(Meyer)
2.(5-9) Chăm sóc bánh trong đền tạm.
a.5-7 5 Ngươi cũng phải lấy bột lọc, hấp mười hai ổ bánh; mỗi ổ cân nặng hai phần mười ê-pha; 6 đoạn sắp ra HAI HÀNG sáu ổ trên cái bàn bằng vàng ròng trước mặt Đức Giê-hô-va, 7 Cùng rắc nhũ hương thánh trên mỗi hàng, để làm kỷ niệm trên bánh, như một của lễ dùng lửa dâng trước mặt Đức Giê-hô-va: được xếp theo thứ tự trên bàn bánh trưng bày (Xuất Ê-díp-tô Ký 25: 23-30), đặt đối diện với chân đèn bằng vàng trong đền tạm (Xuất Ê-díp-tô Ký 26: 35). Chúng được chia đều thành hai hàng, tượng trưng cho mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên trước mặt Chúa, trong đền tạm của Ngài.
i.“6HAI HÀNG: thuật ngữ được sử dụng ở đây là thuật ngữ chung cho ’sự sắp xếp’ và có thể được hiểu là các hàng (như trong hầu hết các phiên bản) hoặc một số loại sắp xếp khác như ’cọc’” (Peter-Contesse)
ii.Bánh này được gọi là bánh trần thiết (bánh trưng bày>bánh chưng) trong Xuất Ê-díp-tô Ký 25: 30, theo nghĩa đen có nghĩa là“ bánh của khuôn mặt”. Đây là bánh liên quan đến sự hiện diện của Chúa. Ăn bánh cùng nhau là dấu hiệu của tình bạn và sự thông công. Mười hai ổ bánh nói về mối quan hệ và sự thông công mà dân Chúa có với Chúa của họ.
b.8 Mỗi ngày sa-bát, người ta sẽ sẮP bánh nầy trước mặt Đức Giê-hô-va LUÔN LUÔN, do nơi dân Y-sơ-ra-ên cung cấp; ấy là một giao ước đời đời.: Hai khía cạnh của điều này là biểu tượng cho mối quan hệ mà Chúa mong muốn với dân sự của Ngài. Chúa muốn có một mối quan hệ đúng đắn, có trật tự với dân sự của Ngài (SẮP đặt). Chúa cũng muốn có một mối quan hệ liên tục, không bị gián đoạn với dân sự của Ngài (LUÔN LUÔN).
i.Cuối cùng, điều này đã trở nên khả thi nhờ con người và công trình của Chúa Giê-su, Đấng Mê-si, Đấng đã tự xưng là Bánh Sự Sống (Giăng 6: 35Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát, Giăng 6: 48Ta là bánh của sự sống).
ii.Dân sự của Đức Chúa Trời ngày nay phải có một số bản chất của mười hai ổ bánh này. “ Hai hàng sáu ổ bánh tượng trưng cho sự hiệp nhất và trật tự của Hội thánh; bột mịn, bản chất thánh khiết, công bằng của Hội thánh; nhũ hương tinh khiết, hương thơm của tình yêu Cơ đốc.” (Meyer)
c.9Các bánh đó sẽ thuộc về A-rôn và các con trai người; họ phải ăn tại một nơi thánh, vì là vật chí thánh cho họ, bởi các của lễ dùng lửa dâng cho Đức Giê-hô-va. Ấy là một lệ định đời đời: Bánh không chỉ để trưng bày trong nghi lễ. Đức Chúa Trời muốn dân sự của Đức Chúa Trời thực sự nhận được, thưởng thức và được nuôi dưỡng bằng bánh – tượng trưng cho mối quan hệ và sự thông công của họ với Ngài.
- Điều đáng chú ý là Đức Chúa Trời muốn sự thông công tươi mới. Bánh phải được thay thế 8vào mỗi ngày Sa-bát. Ngài không muốn sự thông công cũ kỹ với dân sự Ngài, nhưng là mối quan hệ liên tục tươi mới.
B.Trường hợp của kẻ phạm thượng người Ai Cập.
1.(10-12) Tội của người Ai Cập phạm thượng.
a.10 Có một đứa con trai, mẹ là người Y-sơ-ra-ên, và cha là người Ê-díp-tô, đi ra giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên, đánh lộn tại nơi trại quân với một người Y-sơ-ra-ên: Người đàn ông này, nửa là người Ai Cập, nửa là người Hê-bơ-rơ, thuộc về đám dân hỗn tạp đã cùng Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập (Xuất Ê-díp-tô Ký 12:38Lại có vô số người ngoại bang đi lên chung, luôn với chiên, bò, súc vật rất nhiều).
i.“ Ở đây chúng ta cũng có một phần lịch sử…. Có thể nó được đưa vào đây vì nó xảy ra trong thời kỳ ban hành luật.“(Morgan)
- Adam Clarke đã viết về những truyền thuyết Hê-bê-rơ liên quan đến người đàn ông này. “Đúng vậy, các Rabbi đã bù đắp cho sự thiếu sót này theo cách của họ; họ nói rằng hắn là con trai của người Ai Cập mà Moses đã giết, và khi cố gắng dựng lều giữa những người thuộc chi tộc Dan, chi tộc mà bên mẹ ông thuộc về, theo câu 11, ông đã bị một người trong chi tộc đó ngăn cản vì cho rằng ông không có quyền được hưởng địa vị giữa những người Israel đích thực, cả về cha lẫn mẹ. Hậu quả là họ nói rằng ông đã phạm thượng đến danh Chúa.”
b.11Đứa trai đó nói phạm đến và rủa sả danh Đức Giê-hô-va: Người đàn ông đã phạm tội phạm thượng, tức là tấn công ai đó – đặc biệt là Chúa – bằng lời nói của nó. Nó có phần giống với ý tưởng hiện đại về lời lăng mạ, nhưng đặc biệt là nhắm vào Chúa. Lệnh cấm phạm thượng Chúa được đưa ra trong Xuất Ê-díp-tô Ký 22: 28Ngươi chớ nên nói lộng ngôn cùng Đức Chúa Trời, và cũng đừng rủa sả vua chúa của dân sự ngươi.
i.“ Ở Cận Đông, tên của một người gắn liền chặt chẽ với tính cách của người đó, vì vậy trong trường hợp của Chúa, hành vi phạm thượng thực chất là hành vi chối bỏ.“(Harrison)
ii.Có vẻ như người Ai Cập thường nguyền rủa nhiều vị thần của họ. Gốc rễ tội lỗi của người đàn ông này là ông coi Đức Chúa Trời của Israel giống như các vị thần Ai Cập nhỏ mọn.
c.12người ta dẫn nó đến Môi-se, bèn giam nó vào ngục cho đến chừng Đức Giê-hô-va phán định phải xử làm sao. Mẹ nó tên là Sê-lô-mít, con gái của Điệp-ri, thuộc về chi phái Đan: Dân Israel đã khôn ngoan khi để việc này cho công lý và Đức Giê-hô-va phán định phải xử làm sao. Đây không phải là một đám đông làm việc ngoài vòng pháp luật.
i.Vấn đề không rõ ràng vì người đàn ông là người nước ngoài. Luật pháp của Israel không nhất thiết phải áp dụng cho người nước ngoài cũng như người Israel. Câu hỏi là, “Luật chống báng bổ có áp dụng theo cùng một cách đối với người nước ngoài ở giữa chúng ta không?“ Luật pháp của Moses bảo vệ người nước ngoài (Xuất Ê-díp-tô Ký 23: 9Ngươi chớ hiếp đáp người ngoại bang, vì các ngươi đã kiều ngụ tại xứ Ê-díp-tô, chính các ngươi hiểu biết lòng khách ngoại bang là thế nào.), nhưng họ cần hướng dẫn để hiểu mức độ luật pháp của Israel áp dụng cho người nước ngoài trong số họ.
2.(13-14) Hình phạt dành cho kẻ phạm thượng người Ai Cập.
a.13 Vả, Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: 14 Hãy đem kẻ đã rủa sả ra ngoài trại quân, hết thảy ai đã có nghe nó phải đặt tay mình trên đầu nó, và cả hội chúng phải ném đá nó: Điều này được thực hiện theo nguyên tắc sau này được nêu cụ thể trong Phục truyền luật lệ ký 17: 6-7. “6 Cứ theo lời của hai hoặc ba người chứng mới xử tử kẻ đáng bị chết; nhưng cứ lời của một người chứng không đủ xử tử người. 7 Tay của các người chứng phải tra vào mình nó đầu hết, đặng làm cho nó chết, kế sau tay của cả dân sự. Như vậy, ngươi sẽ cất kẻ hung ác khỏi giữa mình.” Hai hoặc ba nhân chứng công khai đặt tay lên người bị cáo, như một lời chứng chắc chắn về tội lỗi của người đó. Điều này cũng có nghĩa là người có tội biết những người buộc tội mình và không thể bị những người buộc tội bí mật kết án.
i.Lời buộc tội phải được chứng minh là đúng. Phục truyền luật lệ ký 19: 16-19 nói rằng một nhân chứng gian dối phải chịu cùng hình phạt dành cho người mà mình buộc tội.
Phục truyền luật lệ ký 19: 16-19 “16 Khi một người chứng dối dấy lên cùng kẻ nào đặng phao tội cho, 17 thì hai đàng có tranh tụng nhau phải ứng hầu trước mặt Đức Giê-hô-va, trước mặt những thầy tế lễ và quan án làm chức đương thì đó. 18 Các quan án phải tra xét kỹ càng, nếu thấy người chứng nầy là chứng dối, đã thưa gian cho anh em mình, 19 thì các ngươi phải làm cho hắn như hắn đã toan làm cho anh em mình; vậy, ngươi sẽ cất sự ác khỏi giữa mình.“
ii.”Bằng cách phải đặt tay mình trên đầu nó, họ đã công khai làm chứng rằng họ đã nghe người này nói những lời như vậy, và đã nhân danh chính họ và nhân danh toàn dân mong muốn và yêu cầu công lý được thực thi đối với hắn ta.” (Poole)
b.và cả hội chúng phải ném đá nó: Chúa đã ra lệnh xử tử bằng cách ném đá vì một số lý do. Đầu tiên, đá rất nhiều. Quan trọng hơn, đó là để cộng đồng có thể tham gia vào cuộc xử tử. Đây vừa là một lời cảnh báo mạnh mẽ vừa là một cách nói rằng, “Người đàn ông này không chỉ phạm tội với Chúa, anh ta còn phạm tội với cộng đồng.”
i.Do đó, luật này cũng áp dụng cho người ngoại quốc. “Đó là nguyên tắc công lý và lòng thương xót. Điểm nhấn đầu tiên của nó là thực tế rằng những người bước vào Vương quốc của Chúa và hưởng các đặc quyền của nó phải được quản lý bởi luật pháp của nó… Bước vào Vương quốc đó là từ bỏ mọi quyền thống trị khác và chấp nhận luật pháp của nó.” (Morgan)
3.(15-16) Nguyên tắc mà dân Israel cần học từ cái chết của kẻ phạm thượng.
a.15 Đoạn hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Người nào rủa sả Đức Chúa Trời mình sẽ mang sự hình phạt của tội mình: Đây là một cách nói rằng,“ người công khai nguyền rủa Chúa phải chịu trách nhiệm về sự phán xét chống lại họ.”
b.16 Ai nói phạm đến danh Đức Giê-hô-va hẳn sẽ bị xử tử; cả hội chúng sẽ ném đá nó: mặc dầu nó là kẻ khách ngoại bang hay là sanh trong xứ, hễ khi nào nói phạm đến danh Đức Giê-hô-va, thì sẽ bị xử tử: Như trường hợp của người phạm thượng người Ai Cập đã chứng minh, đây là một bản án nghiêm khắc cho những gì được coi là một tội nghiêm trọng.
i.Adam Clarke về sự báng bổ trong Ma-thi-ơ 9:3Khi ấy, có vài thầy thông giáo thầm nghĩ rằng: “Người nầy nói phạm thượng (BHĐ): “Bất cứ khi nào nó được sử dụng để ám chỉ đến CHÚA, nó chỉ đơn giản có nghĩa là nói một cách vô đạo đức về bản chất, hoặc các thuộc tính, hoặc các công việc của Ngài. Nói một cách xúc phạm là bản dịch chính xác của nó khi ám chỉ xúc phạm đến con người.”
ii.“Nếu Chúa yêu cầu một người ngoại phải bị hành quyết vì tội này, thì chắc chắn Ngài sẽ không dung thứ cho hành vi vi phạm này giữa những người Israel, những người là dân của Ngài và vì thế được mang danh tính Ngài.“(Rooker)
iii.Rất cẩn thận để không phạm thượng đến danh Chúa, một số người Hê-bê-rơ đã tạo ra những truyền thống rất cẩn thận để tránh nói hoặc viết Danh Chúa. Ý nghĩ là nếu một người không bao giờ nói (hoặc viết) tên Chúa, thì người đó không bao giờ có thể phạm thượng đến danh Chúa.
iv.Theo một số lời kể, chỉ có thầy tế lễ thượng phẩm Hê-bê-rơ mới được phép phát âm thánh danh của Chúa (Yahweh). Ông chỉ được phép nói tên đó một lần một năm – vào Ngày lễ chuộc tội. Một số người nói rằng cách phát âm đúng của tên sẽ được truyền từ thầy tế lễ thượng phẩm sang người kế nhiệm, sau khi người trước trút hơi thở cuối cùng. Đây là lý do tại sao trong nhiều năm đã có sự nhầm lẫn về cách phát âm chính xác của bốn chữ cái nêu Danh xưng của Đức Chúa Trời giao ước của Israel (YHWH). Các chữ cái đã được phát âm khác nhau theo thời gian. Trong một thời gian, các chữ cái YHWH đã bị phát âm nhầm thành“ Jehovah“thay vì “Yahweh“ (Yah-veh). Adam Clarke đã viết vào thời của ông (1830): “ Người Hê-bê-rơ không bao giờ phát âm tên này và tên này đã không được sử dụng trong thời gian dài đến mức cách phát âm thực sự hiện đã hoàn toàn mất đi.”
v.Nhiều người Hê-bê-rơ sùng đạo cũng không viết tên của Chúa, vì nếu tờ giấy đó bị hủy, nó có thể bị coi là phạm thượng hoặc dùng danh Chúa một cách vô ích. Vì vậy, họ sẽ viết Adonai (“Chúa”) thay vì Yahweh. Thay vì “Chúa”, họ sẽ viết “Ch.a.“ Họ sẽ gọi Chúa bằng những cái tên như “Danh“|Hashem thay vì nói “Chúa”.
4.(17-18) Hình phạt cho tội giết người và giết hại động vật trái pháp luật.
a.17 Kẻ nào đánh chết một người nào, mặc dầu kẻ đó là ai, sẽ bị xử tử: Trong bối cảnh đưa ra hình phạt cho kẻ phạm thượng người Ai Cập, Chúa đã nêu ra một nguyên tắc cơ bản về công lý của Ngài – tội ác phải bị trừng phạt, nhưng phải tương xứng với tội ác.
b.18 Kẻ nào đánh chết một súc vật, phải thường lại, nghĩa là mạng đền mạng: Khi con vật thuộc về người khác bị giết mà không được phép, thì phải đền bù. Điều này cho thấy giá trị và phẩm giá của sự sống động vật. Tuy nhiên, người giết một con vật một cách sai trái không phải là kẻ giết người và không phải chết vì sai lầm của mình – chỉ bồi thường bằng tiền hoặc một con vật khác. Điều này cho thấy sự khác biệt giữa sự sống của con người và sự sống động vật.
5.(19-22) Sự phán đoán đúng đắn.
a.19 Khi một người nào làm thương tích cho kẻ lân cận mình, thì người ta phải làm thương tích cho người đó lại như chính người đã làm: Đây là nguyên tắc cơ bản của hình phạt theo mức độ. Nguyên tắc này là cùng một luật đối với người lạ và người bản xứ. Chúa không ban cho người Israel lợi thế không công bằng so với người nước ngoài về mặt luật pháp.
b.20-22 20 gãy đền gãy, mắt đền mắt, răng đền răng. Người ta sẽ làm cho người ấy đồng một thương vít như chính người đã làm cho người khác. 21 Kẻ nào làm chết một súc vật, thì sẽ thường lại; còn kẻ nào giết chết một người, thì phải bị xử tử. 22 Bất luận kẻ khách ngoại bang hay là người trong xứ, các ngươi cũng phải dùng một luật lệ; vì ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi: Nhiều người coi mắt đền mắt, răng đền răng là một mệnh lệnh; thay vào đó, Đức Chúa Trời đã định đó là một giới hạn – vì vậy không một người đàn ông hay thẩm phán nào muốn phán quyết theo ý mình.
i.Luật này không có nghĩa là mắt của kẻ phạm tội sẽ bị móc ra khỏi đầu nếu hắn lấy mắt của người khác. Luật Moses có một hệ thống bồi thường tài chính trong những trường hợp như vậy. “Ví dụ, nếu một nô lệ mất một mắt, thì mắt của người chịu trách nhiệm không được nhổ ra mà thay vào đó, nô lệ sẽ được trao lại sự tự do như một sự đền bù cho con mắt (Xuất Ê-díp-tô Ký 21:26-27 26Nếu ai đánh nhằm con mắt đầy tớ trai hay gái mình, làm cho mất đi, thì hãy tha nó ra tự do, vì cớ mất con mắt. 27 Nếu ai làm rụng một răng của đầy tớ trai hay gái mình, thì hãy tha nó ra tự do, vì cớ mất một răng.).“(Rooker)
ii.Bản chất con người thường quá khoan dung hoặc quá nghiêm khắc. Ở đây, Chúa vừa yêu cầu tội ác phải bị trừng phạt, vừa đặt ra giới hạn thích hợp cho hình phạt.
iii.Chúa Giê-su đã đúng khi lên án việc áp dụng mệnh lệnh này liên quan đến luật pháp và trật tự trong cộng đồng vào các mối quan hệ cá nhân, nơi mà tình yêu, sự tha thứ và nỗ lực hết mình phải là quy tắc chứ không phải sự trừng phạt thẳng tưng (equal retribution) (Ma-thi-ơ 5: 38-42 38 Các ngươi có nghe lời phán rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. 39 Song ta bảo các ngươi, đừng chống cự kẻ dữ. Trái lại, nếu ai vả má bên hữu ngươi, hãy đưa má bên kia cho họ luôn; 40 nếu ai muốn kiện ngươi đặng lột cái áo vắn, hãy để họ lấy luôn cái áo dài nữa; 41 nếu ai muốn bắt ngươi đi một dặm đường, hãy đi hai dặm với họ. 42 Ai xin của ngươi, hãy cho, ai muốn mượn của ngươi, thì đừng trớ.).
6.(23) Việc hành quyết kẻ phạm thượng người Ai Cập.
a.23 Vậy, Môi-se nói lại cùng dân Y-sơ-ra-ên: Chúng ta không được kể lại Moses cảm thấy thế nào về điều này. Công việc của ông là trở thành sứ giả truyền lệnh của Chúa, ngoài cảm xúc và ý kiến cá nhân của ông.
b.23bbiểu đem kẻ đã rủa sả ra khỏi trại quân rồi ném đá nó. Thế thì, dân Y-sơ-ra-ên làm y như lời Đức Giê-hô-va đã truyền dặn Môi-se: Câu này rất quan trọng. Nó chứng minh cho chúng ta thấy rằng luật pháp của Chúa không được ban cho Israel vì những sự kiện thú vị hay đơn thuần chỉ là những chỉ dẫn; Chúa mong đợi họ tuân theo luật pháp. Ở đây, họ đã tuân theo ngay cả khi điều đó khó khăn.
i.“Bản thân người Giu-đa kể với chúng ta rằng cách ném đá của họ như thế này: họ mang người bị kết án ra khỏi trại, vì tội ác của anh ta đã khiến anh ta trở nên ô uế, và bất cứ thứ gì ô uế đều phải được đưa ra khỏi trại. khi họ đến gần nơi hành quyết trong vòng 2 mét, họ lột sạch tội phạm, nếu là đàn ông, chỉ để lại cho anh ta một tấm vải quấn quanh eo. Nơi anh ta sẽ bị hành quyết được nâng lên, và các nhân chứng đi cùng anh ta đến đó, và đặt tay lên người anh ta, vì mục đích đã đề cập ở câu 14. Sau đó, một trong những nhân chứng đánh anh ta bằng một hòn đá vào hông; nếu anh ta không bị giết bằng cú đánh đó, thì các nhân chứng đã cầm một hòn đá lớn, cao bằng hai người có thể nhấc lên, và ném vào ngực anh ta. Đây là đòn kết liễu, và kết thúc thảm kịch.“(Clarke)