ĐẤNG CHRIST hay SATAN
(Dr. Kurt Koch)
Đấng Christ hay Sa-tan (pdf)
Nội dung
Lời tựa của người dịch (sang tiếng anh)
Lời tựa của tác giả
Chương 1: BÓI TOÁN
- Chiêm tinh học
- Xem chỉ tay
- Bói bài
- Thanh que (Bói gậy) và con lắc
- Bói Gương Mantic
- Tâm Lý Trắc Nghiệm (Psychometry)
- Quan Điểm Của Kinh Thánh
- Giải cứu khỏi gánh nặng huyền bí
Chương 2: MA THUẬT
Nhiệm Vụ Canh Gác Của Sự Khai Sáng
- Khái Niệm Về Phép Thuật
- Nguồn Gốc, Mục Đích Và Sự Phát Triển Của Phép Thuật
- Các hình thức của phép thuật
- Các Lĩnh Vực Ứng Dụng Của Phép Thuật
Chữa lành và làm cho bị bệnh
Bùa Yêu Và Bùa Ghét
Ma thuật Trừng phạt và Phòng thủ
Trói và Mở
Bùa chú giết chết trên động vật và con người
- Nghi lễ ma thuật
Phụng vụ ma thuật
Biểu Tượng Ma Thuật
Nghi Lễ Ma Thuật.
- Hậu Quả Của Ma Thuật Và Cách Khắc Phục
Nguyên lý hiệu suất thay thế
Phòng thủ sai lầm
Vũ khí thuộc linh
Sự giải phóng nhờ Chúa Giê-xu
Chương 3: THUYẾT THÔNG LINH (SPIRITISM)
- Những Hiện Tượng Tâm Lý
- Hiện Tượng Vật Lý
- Hiện Tượng Trung gian (Thông Linh) – Ma Thuật
- Những hiện tượng siêu hình
- Những Hiện Tượng Sùng Bái
- Nhận định về những hiện Tượng Thông Linh
Chương 4: PHẢN BÁC SÁCH MA THUẬT MÔ-SE THỨ 6/7
Chương 5: CHỮA LÀNH PHÉP LẠ NGÀY NAY
- Những sự chữa lành trong Kinh Thánh
- Thuật chữa bệnh trung gian (đồng bóng, The Medial Healing Art)
- a) Chữa bệnh bằng câu thần chú
- b) Người Chữa Bệnh Bằng Cầu Nguyện Đức Tin
- c) Người Chữa Bệnh Tâm Linh
- d) Sự Chữa Bệnh Tinh Thần (Chữa Bệnh Bằng Tâm Trí)
- e) Chữa Bệnh Xuất Thần
- f) Những Thầy lang Phi-líp-pin
- g) Bác sĩ phẫu thuật xuất thần
- h) Những người chữa bệnh bằng đức tin
William Branham, Tommy Hicks, Hermann Zaiss
- i) Những Hiện Tượng Giả Ân Tứ Và Chữa Bệnh
Kathryn Kuhlman
Nghiện phép lạ rất nguy hiểm cho đời sống đức tin
Hiện tượng giả mạo ân tứ.
Những Sự Kiện Giống Như Xuất Thần Trong Ngoại Giáo.
Các Sự Kiện Giống Như Trạng Thái Xuất Thần Trong Cơ Đốc Giáo.
Kenneth Hagins
Dấu hiệu và phép lạ của ma quỷ
- Paulaseer Lawrie
- j) Những Dấu Kỳ Và Phép Lạ Của Ma Quỷ
- Sự phân biệt các Thần
- a) Thời đại sự huyền bí của sự vô luật pháp đang hoạt động
- b) Những phong trào chữa lành này cũng là dấu hiệu cho thấy cộng đồng Cơ đốc giáo đã thất bại ở một lĩnh vực nào đó.
- c) Gia-cơ có tiếng nói quyết định trong việc giải quyết vấn đề chữa lành
Chương 6: BÁO CÁO VỀ CÁC CUỘC CHỮA LÀNH VÀ GIẢI CỨU TRONG KINH THÁNH.
- Đấng Christ, Đấng Chiến Thắng Các Quyền Lực Bóng Tối
- Các Thành Trì Bóng Tối
- Các Công Việc Của Ma Quỷ
- Điên không thể chữa khỏi
- Đừng Nhớ Những Tội Lỗi Thời Trẻ Của Tôi
- Chúa Giê-xu Cứu Chuộc
- Được giải cứu khỏi quyền lực của bóng tối
- Chiến đấu với người phụ nữ bị quỷ ám
- Kẻ mạnh sức
- Vậy nếu CON buông tha các ngươi
- Nhân danh TA, họ sẽ đuổi quỷ
- Chiến thắng của Đấng Christ
- Có quyền năng trong huyết
- Bị tước mất quyền năng
- Danh Chúa Giê-xu…
các sách khác cùng tác giả:
Những người cầu nguyện Triều tiên
Lời tựa của người dịch (đức sang tiếng anh)
Tiến sĩ Kurt E. Koch là một mục sư và nhà truyền giáo người Đức. Thông qua các hoạt động tư vấn sâu rộng của mình, ông đã tiếp xúc đặc biệt với lĩnh vực khuất phục tâm lý. Trong ba mươi năm, ông đã đưa ra nhận xét rằng việc tham gia vào những điều huyền bí (bói toán, gọi hồn, thông linh) không chỉ là trò tiêu khiển vô hại mà còn thường dẫn đến những rối loạn tâm linh và thần kinh nghiêm trọng.
Những quan sát của ông đã được công bố trong một tác phẩm khoa học “Seelsorge und Okkultismus” (Tư vấn Cơ đốc và Huyền bí). Trong một thời gian ngắn, cuốn sách đã trải qua sáu lần xuất bản và trở thành sách bán chạy nhất về thần học. Nó được đánh giá là có thẩm quyền trong lĩnh vực của mình. Cuốn sách này cũng là lý do khiến Tiến sĩ Koch nhận được hàng trăm lời mời, đưa ông đến tất cả các nước châu Âu ngoại trừ Nga. Tiến sĩ Koch đã thuyết trình tại 26 trường đại học châu Âu trước các nhà thần học và bác sĩ, nhà tâm lý học và nhà khoa học. Bài giảng của ông thường làm dấy lên những cuộc thảo luận sôi nổi. Vượt lên trên mọi sự tán thành và phản đối, thành quả của công trình của ông là sự thật rằng những câu hỏi ông đưa ra không còn có thể bị che giấu nữa. Bên cạnh hoạt động giảng dạy này, ông đã viết 27 cuốn sách và tập sách nhỏ, tất cả đều đạt đến số lượng bản in cao. Một số tác phẩm phổ biến nhất của ông được tập hợp trong cuốn sách này. Những vấn đề được trình bày ở đây không chỉ là một hiện tượng điển hình ở Châu Âu mà còn có những điểm tương đồng ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới.
Yolanda N. Entz
Lời tựa của tác giả
Nhà văn người Anh nổi tiếng C.S. Lewis viết trong lời tựa cho cuốn sách “Hướng dẫn cho một tiểu quỷ” (The Screwtape Letters) của mình:
“Có hai sai lầm ngang nhau và trái ngược nhau mà loài người chúng ta có thể mắc phải về ma quỷ. Một là không tin vào sự tồn tại của chúng. Sai lầm còn lại là tin và cảm thấy hứng thú quá mức và không lành mạnh với chúng.”
Những người không tin kia là những người duy lý của mọi sắc thái, còn những người khác là những thuật sĩ. Cả hai đều sẽ khó chịu về cuốn sách này. Họ có lý do để khó chịu không? Lý do để bị sốc là cố vấn Cơ đốc giáo, người trong các buổi tư vấn của mình nhìn thấy kết quả tàn khốc của chủ nghĩa duy vật và ma thuật. Do đó, thông tin này phải được công khai. Có hai động cơ cho việc này.
Chúng ta phải công bố chiến thắng của Chúa Giê-xu Christ trên tất cả các quyền lực của bóng tối. Những người bị áp bức và bị khuất phục bởi tà thuật không thể được giúp đỡ thông qua y học, tâm lý học và tâm thần học mà chỉ thông qua Chúa Giê-xu Christ. Do đó, họ phải được chỉ đường đến Đấng Giải Cứu Vĩ Đại.
Các ví dụ từ những buổi tư vấn cơ đốc đã được sự cho phép từ người tham gia tư vấn, để xuất bản
Tác giả
Chương 1: BÓI TOÁN
Trong hàng ngàn năm, bói toán là một sản phẩm của chủ nghĩa ngoại giáo, xuất phát từ nỗi sợ hãi, sự tò mò và mê tín. Bói toán trong thời đại chúng ta là một vấn đề đa dạng của văn hóa dân gian, tâm lý học và thần học. Điểm khởi đầu cho những tuyên bố này là sự quan tâm mục vụ của nhà thần học Tin lành. Mục vụ truyền giáo luôn cung cấp những tài liệu kinh nghiệm mới. Hồ sơ về các trường hợp huyền bí của tôi đã tăng lên hơn hai mươi nghìn ví dụ. Những tranh luận khoa học được tránh đề cập trong cuốn sách này. Bất cứ ai muốn điều này có thể tìm thấy nó trong tác phẩm ‘Chăm sóc Mục vụ và Huyền bí’ của tôi. Ở đây chủ yếu là những ví dụ trực tiếp được trình bày để giúp người đọc đưa ra nhận định của riêng mình. Bí mật của người xưng tội không bị vi phạm vì được sự cho phép xuất bản mà không cần ghi nguồn. Các lĩnh vực bói toán sau đây được trình bày:
- Chiêm tinh học
- Xem chỉ tay
- Bói bài
- Bói gậy và con lắc
- Bói Gương Mantic
- Trắc nghiệm tâm lý (Psychometry)
- Vị trí của Kinh Thánh
- Giải cứu khỏi gánh nặng huyền bí
- Chiêm Tinh Học
Chiêm tinh học theo nghĩa hẹp là cách giải thích vận mệnh con người dựa trên vị trí của các ngôi sao tại thời điểm sinh ra. Mức độ mà phong tục cổ xưa này vẫn còn ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi người ngày nay đã được Viện Tâm lý học Dân số ở Allensbach bên Hồ Constance chứng minh cách đây vài năm. Họ đã tiến hành một cuộc khảo sát cắt ngang với hai nghìn người từ mọi nhóm nghề nghiệp. Mục đích của cuộc khảo sát này là xác định có bao nhiêu người đã từng sử dụng chiêm tinh học, ngay cả khi chỉ là hình thức xem tử vi đơn giản nhất. Kết quả thật đáng kinh ngạc. 63 phần trăm số người được hỏi cho biết họ xem tử vi và đôi khi thậm chí còn chú ý đến chúng. Các cuộc khảo sát cắt ngang như vậy thường cung cấp bức tranh tốt về thái độ của mọi người. Lập luận duy nhất có thể đưa ra để phản bác lại kết quả này là cuộc khảo sát này được tiến hành ngay sau chiến tranh. Vào thời điểm thảm họa, hiện tượng bói toán xuất hiện nhiều hơn so với thời điểm bình thường. Hiện nay, tỷ lệ phần trăm cực cao này khó có thể xảy ra. Nhưng ngay cả khi chỉ có một nửa hoặc một phần ba dân số của chúng ta đọc tử vi thì đó cũng là một tình trạng đáng báo động.
Thậm chí còn đáng lo ngại hơn phát hiện đầu tiên này là một sự thật khác. Trong một tuần diễn thuyết tại một thành phố lớn ở Tây Đức, tôi được nghe về một nhà trị liệu tâm lý cơ đốc, người tư vấn cho bệnh nhân của mình bằng chiêm tinh học. Để không trở thành nạn nhân của bất kỳ tin đồn nào, tôi đã gọi cho người cơ đốc kỳ lạ này và hỏi liệu có đúng là ông ta xem tử vi cho khách hàng của mình không. Câu trả lời của ông này là có. Theo yêu cầu của tôi, ông ấy cũng sẵn lòng nói chuyện. Vì người đàn ông này, người có bằng tiến sĩ từ một trường đại học Đức, đã hào phóng cho phép công bố cuộc trò chuyện của chúng tôi nên chúng tôi có thể tường thuật lại ở đây.
Tôi sẽ đưa ra các ví dụ được đánh số thứ tự.
V 1 (Ví dụ 1) Một phụ nữ trẻ đến gặp vị mục sư này và phàn nàn về cuộc hôn nhân không hạnh phúc của mình. Ông ấy yêu cầu cô ấy cho ông biết ngày sinh của cô ấy và quay lại sau vài ngày. Sau bốn ngày, tử vi đã sẵn sàng. Khi khách hàng quay lại, cô vô cùng ngạc nhiên và kinh hãi khi nghe những lời sau: “Chính cô phải chịu trách nhiệm về những căng thẳng trong cuộc hôn nhân của mình, chứ không phải chồng cô. Theo quẻ tử vi của cô, cô đã ngoại tình với một sĩ quan quân đội Đức trong bốn năm. Vì vậy, việc đổi mới cuộc hôn nhân của bạn phải đến từ chính bạn.” Người phụ nữ tái mặt nhưng không phản đối. Cô không bao giờ xuất hiện trong giờ làm việc của vị mục sư kỳ lạ này nữa.
V 2 Sau đó, vị cố vấn hôn nhân và mục sư được đào tạo về chiêm tinh này đã kể cho tôi nghe về một trường hợp khác trong công việc của ông. Một ngày nọ, ông được mời đến dự một bữa tiệc. Một doanh nhân nổi tiếng đến gặp ông và hỏi: “Thưa bác sĩ, tôi biết ông là người bận rộn. Tôi không dám đến văn phòng của ông trong giờ làm việc. Nhưng ông có coi tử vi cho tôi không. Tôi đã nhờ một nhà chiêm tinh lập tử vi cho tôi. Tất cả những gì tôi quan tâm là ông đánh giá nó.” Nhà trị liệu tâm lý tỏ ra bình tĩnh. Ông ngồi xuống một gian hàng cùng với doanh nhân và xem tử vi. Sau đó, ông ta đưa cho đối tượng của mình những thông tin sau: “Anh/chị đã kết hôn và có bốn đứa con. Nhưng cuộc hôn nhân của hai người không hạnh phúc. Mối đe dọa đến từ phía ông. Ông có khuynh hướng lưỡng tính. Đồng thời, họ vẫn duy trì mối quan hệ với những người đàn ông trẻ tuổi. Nếu ông không từ bỏ những quan hệ với những người đàn ông này ngay lập tức, ông sẽ phải vào tù trong hai năm nữa.” Trong trường hợp này, luật sư cũng không phủ nhận sự thật của vụ án. Khi tôi bày tỏ mối quan ngại của mình với nhà trị liệu tâm lý về việc liệu việc tư vấn như vậy có chính đáng hay không, ông đã tự bào chữa bằng cách nói: “Trong cả hai trường hợp, tôi đều phát hiện ra nguyên nhân dẫn đến cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Tôi cũng yêu cầu cả hai người xin tư vấn từ bỏ quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Trong trường hợp này, tử vi phục vụ cho đạo đức và sự đứng đắn của con người.” Dựa trên nhiều năm kinh nghiệm của mình, tôi chỉ ra cho vị mục sư kỳ lạ này những nguy hiểm của việc xem tử vi, đặc biệt liên quan đến đức tin và đời sống tâm linh của mọi người. Nhưng ông ấy hoàn toàn phớt lờ lời giải thích của tôi. Bây giờ chúng ta đã nêu ra một số câu hỏi với hai ví dụ này, vấn đề chiêm tinh học phải được trình bày tóm tắt trong lịch sử và hiện tại.
Về Lịch sử chiêm tinh học:
Những dấu vết đầu tiên của chiêm tinh học có thể được tìm thấy ở người Sumer và người Akkad, những dân tộc sống 3000 năm trước Công nguyên. Sau đó, người Canh-đê nổi tiếng với sự phát triển của thiên văn học và chiêm tinh học. Ở người Babylon, chiêm tinh học là khoa học của các linh mục chuyên vẽ tử vi cho hoàng gia hoặc cho chính giới linh mục. Vì chiêm tinh học cũng được phát hiện trong văn hóa Mexico nên giới chiêm tinh ngày nay tin rằng “khoa học” này đại diện cho một chân lý cơ bản chung trong mối quan hệ giữa vũ trụ và con người. Do đó, người ta giải thích rằng chiêm tinh học, hay đúng hơn là các cung hoàng đạo, thuộc về các nguyên mẫu. Thành ngữ này, do Giáo sư Carl Gustav Jung sáng tạo ra, có nghĩa là con người luôn có những yếu tố nguyên thủy bẩm sinh trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Những yếu tố nguyên thủy này cũng bao gồm mối quan hệ giữa các hành tinh và sự phát triển của con người. Cuộc điều tra khoa học về vấn đề này sẽ vượt ra ngoài phạm vi của chương này. Từ người Babylon, phong trào chiêm tinh đã đi vào trí tưởng tượng của người Hy Lạp và La Mã. Nhà thơ người La Mã Ennius đã chế giễu rằng: “Tử vi có giá một drachma và thực sự đắt hơn một drachma.”
Trong nhà thờ sơ khai, chính Augustine là người luôn giữ được tầm nhìn sáng suốt và cái đầu lạnh. Ông gọi chiêm tinh học là ảo tưởng điên rồ nhất thời đại của ông. Châu Âu đã từng bị nhấn chìm bởi trận hồng thủy chiêm tinh này vào thời Trung Cổ. Hoàng đế Hohenstaufen Frederick II đặc biệt chịu ảnh hưởng của họ. Chiêm tinh học đã tìm được lối vào thuận lợi cho các trường đại học đến mức người ta đã thành lập những khoa chuyên ngành dành riêng cho nó. Người ta biết rằng Philipp Melanchthon đã từng đùa giỡn với môn khoa học đáng ngờ này, trong khi Luther gọi đó là một môn nghệ thuật tồi tàn.
V 3 Chúng ta được biết từ thời kỳ Cải cách rằng có một nhà chiêm tinh tên là Stöffler đã tự biến mình thành một kẻ ngốc nghếch. Ông dự đoán sẽ có trận lụt vào năm 1524. Dân chúng vô cùng sợ hãi. Không ai muốn làm việc nữa. Những cánh đồng không còn được canh tác nữa. Hậu quả là một nạn đói lớn xảy ra vào mùa đông năm sau, góp phần gây nên tình trạng hỗn loạn trong Chiến tranh Nông dân. Người giàu đóng tàu hoặc rút lui lên núi cao. Ngay cả Tuyển hầu (Lãnh Chúa) xứ Brandenburg, người vẫn tỉnh táo, cũng đã chuẩn bị để giải cứu ông. Khi trận lụt dự đoán không xảy ra, Stöffler phải chạy trốn nếu không ông sẽ bị treo cổ.
V 4 Ngay cả nhà vật lý, toán học và thiên văn học vĩ đại Johannes Kepler cũng không thoát khỏi sự lạm dụng của chiêm tinh học. Một ví dụ nổi tiếng là lời tiên tri của ông rằng Tướng Wallenstein sẽ chết một cách thanh thản ở tuổi bảy mươi. Tuy nhiên, Wallenstein đã bị giết ở tuổi năm mươi. Kepler thực hành chiêm tinh học chỉ vì lo cho cuộc sống của mình. Ông viết: “Với tôi, chiêm tinh học là một thứ nô lệ không thể chịu đựng được nhưng cần thiết. Để duy trì mức lương hàng năm, chức danh và nơi cư trú của mình, tôi phải đáp ứng sự tò mò của những người thiếu hiểu biết.” Ông tiếp tục: “Thiên văn học là người mẹ thông thái, chiêm tinh học là đứa con gái ngốc nghếch bán mình cho bất kỳ ai trả tiền để có thể nuôi người mẹ thông thái của mình bằng đồng lương làm điếm.” Kể từ thời Khai sáng, vào khoảng giữa thế kỷ 18, thiên văn học và chiêm tinh học đã tách biệt hoàn toàn. Trong mắt các nhà thiên văn học, chiêm tinh học là một khoa học giả (pseudoscience), sự kết hợp giữa kiến thức bán khoa học và những ý tưởng mê tín. Thế kỷ 20 chứng kiến sự tái diễn của bệnh dịch tử vi do hai cuộc chiến tranh thế giới. Ngay từ năm 1930, tử vi đã được lập cho Hitler và chúng rất mâu thuẫn. Từ năm 1933 trở đi, ảnh hưởng của ông bắt đầu suy yếu. Chúng ta đã trải nghiệm được sự thật của lời tiên tri này. Nhà chiêm tinh đó đã sai trong 12 năm. Nhưng đó là 12 năm định mệnh.
Rudolf Hess đã được tiên tri qua tử vi rằng ông có sứ mệnh mang lại sự hòa giải giữa Đức và Anh. Đây chính là lý do khiến Hess mê tín phải bay tới Anh. Sự thật của lời tiên tri này cũng rõ ràng như tử vi của Hitler.
Bây giờ chúng ta hãy kết thúc bài tổng quan nhỏ này bằng một số ghi chú hiện tại.
V 5 Vài năm trước, tôi đã tham gia một hội nghị quy tụ các nhà thần học và nhà báo để có một cuộc thảo luận hiệu quả. Trong suốt quá trình hội nghị, các nhà thần học đã yêu cầu các nhà báo ngừng làm điều vô lý là đăng tử vi trên báo. Sau đó, nhiều biên tập viên đã liên hệ với chúng tôi và giải thích rằng họ đang đáp ứng mong muốn của người đăng ký bằng cách cung cấp tử vi. Tờ báo không đăng tử vi sẽ mất đi nhiều độc giả. Sau cuộc trò chuyện này, tổng biên tập của một tờ báo lớn của Đức đã lên tiếng và kể lại một trải nghiệm hài hước. Ông nói:
“Một ngày thứ sáu, tử vi hàng tuần của nhà chiêm tinh của chúng tôi đến quá muộn so với số ra thứ bảy. Chúng tôi không thể để những người đăng ký nghiện tử vi của mình thất vọng. Vì vậy, tôi nhanh chóng lấy một lá tử vi cũ ra khỏi tủ. Thật không may, đó lại là cung hoàng đạo sai. Lúc đầu tôi không nhận ra lỗi này vì tôi chẳng hiểu gì về chiêm tinh học. Thật kỳ lạ là độc giả của chúng tôi cũng không để ý. Ít nhất thì đây cũng là một lập luận tích cực cho các nhà chiêm tinh chuyên nghiệp của chúng ta. Nếu họ coi trọng tử vi trên báo và đọc chúng, họ sẽ nhận ra lỗi ngay lập tức. Khi sự xoay xở như chong chóng của tôi đã diễn ra tốt đẹp, tôi nảy ra ý định tiết kiệm chi phí xem tử vi hàng tuần cho tương lai. Trong thời gian tiếp theo, tử vi giả đã được sử dụng 23 lần cho đến khi cuối cùng một người đọc nhận ra cung hoàng đạo sai.”
Đó là báo cáo của tổng biên tập, người nói thêm với một nụ cười: “Nhưng tử vi đã đúng trong hai mươi ba lần; sau cùng, tất cả phụ thuộc vào những gì những người mê tín ngày nay tin tưởng.”
Với nhận định rằng tính dễ bị ảnh hưởng của những người mê tín là một vấn đề nghiêm trọng hiện nay, nhà báo này đã nắm bắt đúng một phần vấn đề của bói toán.
Về Việc Phê Bình Chiêm Tinh Học
Lập luận đầu tiên được đề cập theo quan điểm của cơ đốc giáo là nguồn gốc của chiêm tinh học trong ngoại giáo. Hàng ngàn năm trước Công nguyên, con người tin rằng vũ trụ và nhân loại tồn tại hòa hợp. Vũ trụ vĩ mô, thế giới đầy sao phía trên chúng ta, và vũ trụ vi mô, cuộc sống con người, tạo thành một thể thống nhất. Chúng được phối hợp với nhau. Các hành tinh kích hoạt xu hướng và khuynh hướng trong quá trình phát triển của con người. Con người chịu sự kiểm soát của những quyền lực cao hơn. Những tuyên bố này thậm chí còn tương ứng với một cách giải thích nhẹ nhàng. Các nhà chiêm tinh cuồng tín luôn tuyên bố rằng số phận của con người không chỉ bị ảnh hưởng mà còn được xác định, cố định và định sẵn.
Nhưng mối quan hệ giữa con người và các hành tinh không phải là điều duy nhất được nói đến. Người ngoại đạo coi các hành tinh là những vị thần hướng dẫn hoặc đe dọa họ. Do đó, chiêm tinh học dựa trên thuyết đa thần, một niềm tin vào nhiều vị thần.
Theo quan điểm thiên văn học, tức là từ nghiên cứu khoa học về các vì sao, có rất nhiều lập luận phản đối chiêm tinh học. Điều đáng chú ý ở đây là các quy tắc chiêm tinh cũ vẫn được bảo tồn cho đến ngày nay, mặc dù có nhiều hành tinh được phát hiện hơn. Sao Thiên Vương được phát hiện vào năm 1781, sao Hải Vương vào năm 1839 và sao Diêm Vương vào năm 1932. Để lập luận thêm, các nhà thiên văn học khoa học của chúng ta chỉ ra rằng các nhà chiêm tinh ngày nay không có khả năng so sánh. Thực tế là trục Trái Đất của chúng ta mô tả một hình nón trong 26.000 năm và do đó gây ra cái gọi là tiến động, sự tiến triển của xuân phân, cho thấy các chòm sao giống nhau (vị trí của các ngôi sao) sẽ không được trình bày cho người quan sát trên mặt đất trong ít nhất là 26.000 năm. Nếu sau đó chúng ta tiếp tục lấy các điều kiện của nhà thiên văn học người Anh nổi tiếng thế giới Hoyle làm cơ sở, cụ thể là bầu trời đầy sao mà chúng ta có thể nhìn thấy sẽ mọc và lặn trên đường chân trời của thế giới trong vòng 200 triệu năm, thì Chúng ta cũng không có cơ hội để so sánh trong vòng 200 triệu năm. Tất nhiên, tôi biết những manh mối thiên văn này chẳng có ý nghĩa gì đối với nhà chiêm tinh.
Một nhà nghiên cứu chiêm tinh học nổi tiếng, Abbé Moritz Warburg, đã phát biểu một cách mỉa mai: “Các nhà chiêm tinh học thực sự không biết xấu hổ.”
Một điều khác không thể về khoa học là lý thuyết tia sáng của các nhà chiêm tinh. Người ta cho rằng các tia sáng của ngôi sao chiếu vào đứa trẻ vào thời điểm nó chào đời, hay chính xác hơn là vào thời điểm nó tách khỏi dây rốn, có vai trò quyết định đến số phận của đứa trẻ. Có một số giả định tùy ý trong tuyên bố này. Trái đất của chúng ta chủ yếu được tiếp cận bởi ánh sáng và các tia vũ trụ. Tuy nhiên, cả hai loại bức xạ này đều không đến từ các hành tinh vì chúng không có ánh sáng riêng. Ánh sáng đến từ các nguồn sáng là các ngôi sao cố định. Các tia vũ trụ đến từ Ngân Hà.
Các nhà sinh vật học của chúng tôi sau đó lại đưa ra một phản đối khác. Người ta nói rằng số phận của con người được quyết định vào thời điểm cắt rốn. Vì vậy, nếu bác sĩ hoặc nữ hộ sinh do dự trong quá trình sinh nở, hoặc nếu nữ hộ sinh vì đường tuyết giá trơn trượt không có mặt đủ nhanh để cắt dây rốn, thì đứa trẻ sẽ có số phận khác. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu di truyền của chúng tôi đặt câu hỏi: “Tại sao trong số 240 đứa trẻ được sinh ra mỗi khoảnh khắc trên thế giới rộng lớn này, chỉ có một Albert Einstein? ” Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, các học giả tôn giáo và nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cũng lên tiếng. Họ nói: “Cái tên ma thuật kỳ lạ này là gì vậy? ” Một hành tinh được đặt tên là Sao Hỏa. Do đó, hành tinh này được tạo ra để khiến con người trở nên hiếu chiến. Thần Vệ Nữ ban cho con mình vẻ ngoài và hành vi đáng yêu. Sao Diêm Vương, con chó săn địa ngục, khiến mọi thứ trở nên đen tối và đáng sợ. Các hành tinh sẽ có ảnh hưởng gì nếu chúng được đặt tên hoàn toàn khác? Sự quy kết các đặc điểm của con người này tương ứng với phép thuật tương tự của người ngoại giáo cổ đại. Ma thuật tên ngoại giáo này thậm chí không dừng lại ở bức tranh Bữa Tiệc Ly nổi tiếng của Leonardo da Vinci. Trong bức tranh nổi tiếng thế giới của mình, ông đã đặt mười hai cung hoàng đạo bên dưới các bức tượng của các tông đồ. Vì vậy, nghệ sĩ vĩ đại này cũng đã tỏ lòng tôn kính với chiêm tinh học.
Tất nhiên, bất chấp những lời chỉ trích về tử vi, mối quan hệ liên hành tinh không bị phủ nhận. Nhiều hiện tượng tự nhiên như thủy triều lên, xuống, thủy triều mùa xuân và thủy triều trăng khuyết, cũng như nhiều kích thích thần kinh khác nhau, đều có nguyên nhân là do lực hấp dẫn giữa các hành tinh. Nhưng đối với chúng ta, những người theo Chúa, điều này không có nghĩa là những hiện tượng tự nhiên này phải là định hướng tâm linh cuối cùng của chúng ta. Cuối cùng, chúng ta không nói đến sự sáng tạo mà nói đến Đấng Sáng Tạo.
Ngày nay chúng ta có ba hình thức chiêm tinh học: một hình thức được gọi là khoa học, sau đó là tử vi mặt trời phổ biến và cuối cùng là một hướng trung gian, được gọi là vũ trụ học, có trụ sở chính tại Aalen (Đức). Tử vi – qua đó chúng ta hiểu được cách giải thích về số phận dựa trên vị trí của các ngôi sao – được gọi là vũ trụ đồ trong vũ trụ học.
Ngành khoa học bán mới này tính đến cả cấu tạo di truyền của con người và vị trí của các vì sao khi sinh ra. Điều này tính đến sự khác biệt giữa những người sinh ra dưới cùng một vì sao.
Ngày nay, không chỉ những người theo Chúa và truyền giáo tin vào Kinh thánh mới đấu tranh chống lại chiêm tinh học; những người trong lĩnh vực y học và tâm lý học cũng bắt đầu nhận thức được tác hại do chiêm tinh học gây ra. Bác sĩ trưởng khoa là Tiến sĩ Schrank từ Wiesbaden nói về tâm lý mê tín: “Những tác động nguy hiểm của chiêm tinh học được chứng minh bằng thực tế là những người nhạy cảm phải chịu tổn thương tâm lý nghiêm trọng, sợ hãi cuộc sống, tuyệt vọng và đổ vỡ.
Chiêm tinh học làm tê liệt sự chủ động và phán đoán. Nó làm cho mọi thứ trở nên tầm thường và đơn giản, nó đồng nhất tính cách cho một phong trào ngầm nông cạn.”
Nếu chúng ta vẫn còn nghi ngờ về bản chất thực sự của chiêm tinh học, thì mối lo ngại cuối cùng của chúng ta sẽ được giải tỏa nếu chúng ta lắng nghe nhà chiêm tinh học hàng đầu Werle, người tự mô tả chiêm tinh học là chủ nghĩa bói toán. Từ mantic bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp mantis có nghĩa là nhà tiên tri hoặc manteuomai, có nghĩa là xem bói. Sẽ tốt hơn nếu chính nhà chiêm tinh nói rằng chiêm tinh học là bói toán. Khi đó chúng ta sẽ thoát khỏi sự phán xét này.
Chiêm Tinh Học Từ Góc Nhìn Của Kinh Thánh
Người ta đã nói rằng trong ngoại giáo, người ta đã thực hiện phép so sánh các hành tinh với các vị thần. Chúng ta biết điều này từ lịch sử tôn giáo, nhưng cũng từ môi trường ngoại giáo của Israel. Nếu bạn đang tìm kiếm lời chứng trong Kinh thánh, bạn sẽ tìm thấy nó trong Phục truyền luật lệ ký. 17:3-5: “ 2 Khi ở giữa ngươi, trong một thành nào mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho ngươi, có một người nam hay nữ làm điều ác trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, vi phạm giao ước Ngài,3 đi hầu việc và quì lạy các thần khác, hoặc mặt trời, mặt trăng, hay là cả thiên binh, – tức là điều ta không có dạy biểu; – 4 khi điều đó đem học cho ngươi hay, thì phải tra hỏi kỹ càng, và nếu điều người ta nói là thật, và quả quyết có một sự gớm ghê dường ấy đã phạm trong Y-sơ-ra-ên, 5 thì ngươi phải dẫn người nam hay nữ đã làm việc ác đó đến cửa thành, ném đá cho chúng nó chết.”
Tất nhiên, một nhà chiêm tinh thế kỷ 20 sẽ nói với chúng ta: “Điều đó không áp dụng cho chúng ta. Chúng tôi không tôn thờ các vì sao.” Tất nhiên, chúng ta sẽ không tin tưởng bất kỳ người nào có tư tưởng tâm linh vào thời đại chúng ta lại chấp nhận thuyết đa thần thô thiển như vậy. Tuy nhiên, về nguyên tắc, niềm tin vào các hành tinh thời cổ đại và thuyết quyết định luận (determinism, sự tiền định của các vì sao) của chiêm tinh học ngày nay là giống nhau.
Nhưng nếu ai còn nghi ngờ về điều này, hãy lắng nghe tiên tri Ê-sai, người nói trong chương 47, câu 13-14: “13Ngươi đã nhọc sức vì cớ nhiều mưu chước. Vậy những kẻ hỏi trời, xem sao, xem trăng mới mà đoán việc ngày sau, bây giờ hãy đứng lên và cứu ngươi cho khỏi những sự xảy đến trên ngươi. 14Kìa, họ sẽ trở nên như rơm rạ, bị lửa thiêu đốt; họ sẽ chẳng cứu mình được khỏi quyền ngọn lửa; lửa ấy chẳng phải lửa than để sưởi, hay là lửa để ngồi kề một bên.” Khi tôi đưa đoạn văn này cho một nhà chiêm tinh Cơ đốc cách đây một thời gian, ông ấy nói: “Điều này không áp dụng cho chúng tôi. Điều này chỉ được viết cho người dân Israel.” Đây là một cái cớ được đưa ra để biện hộ như đúng rồi.
Vậy thì Thư gửi tín hữu Rô-ma cũng không áp dụng cho chúng ta, vì nó được viết cho người Rô-ma. Điều này cho phép chúng ta bác bỏ bản chất ràng buộc của toàn bộ Kinh Thánh.
Đối với những Cơ Đốc nhân tin vào Kinh Thánh, những người đã phục tùng thẩm quyền của toàn bộ Kinh Thánh, thì những gì Phao-lô nói trong 2 Ti-mô-thê đều được áp dụng. 3:16 chép: “Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, Nguyên bổn rằng: Cả Kinh-thánh đều chịu Đức Chúa Trời hà hơi vào
có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình” Quan điểm của Zinzendorf cũng giống như chúng ta:
Nếu Lời của Ngài không còn giá trị nữa,
Đức tin nên dựa vào điều gì?
Tôi không quan tâm đến một ngàn thế giới,
Nhưng đó là để giữ lời Ngài.
Từ hàng ngàn năm nay, Chúa đã nói không với mọi hình thái chiêm tinh học một cách rõ ràng. Điều này không thể được diễn giải lại bởi các nhà thần học hàn lâm sẵn sàng thỏa hiệp. câu trả lời của Chúa là có và có, không và không.
Toàn bộ vị trí của Kinh Thánh cho thấy rằng những người của Chúa đã nhìn thấy trong chiêm tinh học một sự vi phạm điều răn đầu tiên: “Ngươi không được có các thần khác đối nghịch với Ta.” Chiêm tinh học ở dạng cuối cùng của nó làm cho thế giới được tạo ra trở nên tuyệt đối. Sinh vật này phải đối đầu với đấng sáng tạo. Và đó là sự báng bổ. Bất kỳ ai, kể cả người tin Chúa, nếu có lá số tử vi đều phạm tội báng bổ này. Nếu người đó không thành tâm ăn năn và từ bỏ, thì sẽ bị phán xét.
Chiêm Tinh Học Từ Góc Nhìn Của Mục Vụ Chăm Sóc
Trong tất cả các tuyên bố trước đây, không một từ nào được đề cập đến việc liệu tử vi có phải là gian lận, gợi ý hay chỉ là sự giải thích sai lệch hoàn toàn hay không.
Trong bất kỳ lĩnh vực bói toán nào, chúng ta cũng không nên để mình bị lừa dối khi nghĩ rằng mọi thứ đều là trò bịp bợm và lừa dối trắng trợn. Mặc dù hầu hết các dự đoán đều không đúng hoặc chỉ đúng thông qua lời đồn, nhưng cũng có những trường hợp thực tế rất đáng kinh ngạc. Chúng ta đã thấy thực tế này trong ví dụ 1 và 2. Một ví dụ khác sẽ được nêu sau đây.
V 6 Một mục sư Tin Lành, cũng giống như tôi, đang đấu tranh chống lại mê tín dị đoan, đã nảy ra ý tưởng đưa ra bằng chứng cho giáo đoàn của mình về sự không bền vững của chiêm tinh học. Ông đã bỏ ra một khoản phí đáng kể để lập ra một lá số tử vi chi tiết và công bố nó cho giáo đoàn của mình. Bây giờ ông tin rằng với tư cách là một mục sư và một người tin Chúa, dù tử vì có ứng nghiệm, ông vẫn sẽ không bị ảnh hưởng. Nhưng ông vô cùng ngạc nhiên khi tất cả những lời tiên tri trong tử vi đều trở thành sự thật. Ông ấy không thể giải thích được. Ngoài ra còn có những chi tiết, sự kiện khách quan không thể giải thích bằng sự gợi ý. Cuối cùng, vị mục sư này trở nên sợ hãi. Năm này qua năm khác, lời tiên đoán của nhà chiêm tinh đều trở thành sự thật. Trong tám năm, ông quan sát sự phát triển này với sự lo ngại ngày càng tăng. Cuối cùng ông ta phải nhận ra rằng mình đã đi sai đường. Là người cơ đốc, chúng ta không có quyền tiến hành các thí nghiệm huyền bí với mục đích tốt. Vị mục sư này đã ăn năn vì thí nghiệm của mình. Ông cũng thú nhận với giáo đoàn rằng đó là con đường sai lầm. Từ thời điểm đó trở đi, các chi tiết tiếp theo trong tử vi của ông cũng thôi không ứng nghiệm nữa. Không hề nhận ra, vị mục sư ngoan đạo này đã bước vào thế giới của ma quỷ và bị bỏng ngón tay. Sự ăn năn chân thành của ông đã xua tan những thế lực đen tối trong cuộc đời ông. Sự chăm sóc mục vụ đã cho tôi thấy theo nhiều cách rằng ngay cả những người tự nhận mình là cơ đốc nhân cũng được hướng dẫn bởi các buổi tư vấn chiêm tinh. Hai người giúp việc cộng đồng đã kể với tôi rằng họ phải nhờ đến lời khuyên của một nhà chiêm tinh khi sắp có lễ đính hôn. Vì tử vi ngày sinh của cô xung khắc với tử vi ngày sinh của chú rể nên cuộc hôn nhân đã không diễn ra.
Các báo cáo khác cho tôi thấy rằng đôi khi các ông chủ công ty lập tử vi cho những nhân viên mới. Quy trình tương tự cũng được thực hiện khi sáp nhập với đối tác. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, luôn có những chính trị gia và chính khách xem tử vi trước khi đưa ra quyết định chính trị hoặc quân sự quan trọng. Người ta nói rằng Hitler không cho phép Guderian chiếm Moscow bằng xe tăng của mình vì các nhà chiêm tinh đã cảnh báo ông ta về số phận của Napoleon. Vâng, cuối cùng thì ông ta cũng không thoát khỏi số phận này!
Nếu tôi không biết gì từ Kinh thánh về việc từ chối chiêm tinh học, thì kinh nghiệm mục vụ của tôi cũng đủ để tôi từ chối phong trào này vì nó là sự pha trộn giữa trò bịp bợm và mê tín, chân lý bán khoa học và ma giáo. Bất kỳ ai nghiện tử vi đều mất đi quyền tự do quyết định. Người đó mất đi quyết tâm khi nghĩ đến tương lai. Tử vi được trả công bằng sự bình yên nội tâm. Sự bất lực được cho là sẽ tìm được lối thoát thông qua tử vi lại dẫn đến chế độ nô lệ. Bất kỳ ai tìm kiếm sự hướng dẫn và giúp đỡ trên con đường này đều trở thành con mồi của những thế lực đen tối.
Tuy nhiên, đó không phải là tất cả những gì có thể nói về chiêm tinh học. Bạn không thể xây dựng một cuộc sống mới với những biển báo cấm. Đằng sau chiêm tinh học, cũng như mọi hình thức bói toán, đều ẩn chứa câu hỏi về lòng tin. Tôi cho phép những quyền lực nào quyết định tôi? Ai nên là người cố vấn của tôi? Tôi muốn sống cuộc đời mình trong trường lực nào? Bất cứ ai đã đưa ra quyết định này, hãy lắng nghe lời Chúa: Thi thiên 32:8 “Ta sẽ dạy dỗ ngươi, chỉ cho ngươi con đường phải đi; Mắt ta sẽ chăm chú ngươi mà khuyên dạy ngươi.”
Ở đây giới thiệu cho chúng ta một Đấng nói rằng muốn nắm giữ mạng sống của chúng ta trong tay Ngài. Đấng đó là ai? Ngài là Đấng nắm giữ trời đất, các vì sao trên đầu chúng ta và cả sinh linh nhỏ bé của chúng ta trong tay Ngài.
Một nghệ sĩ người Pháp đã đưa ra câu trả lời tuyệt vời cho câu hỏi về lòng tin mà chúng ta quan tâm. Ông đã tạo ra một tác phẩm điêu khắc hình bàn tay mở ra hướng lên trên. Trong tay có một quả bóng đất sét. Hai người nhỏ đang bò trên quả bóng. Bên dưới, nghệ sĩ viết: La main de Dieu – Bàn Tay Của Chúa. Đây là tín điều của một nghệ sĩ ít lời: trong tay Ngài là cả thế giới, trong tay Ngài là trái đất của chúng ta, trong tay Ngài là toàn thể nhân loại, trong tay Ngài là số phận nhỏ bé của tôi. Đây là câu trả lời của cơ đốc nhân đối với mọi trò bói toán, mọi thuật chiêm tinh.
Tôi đứng trong tay Chúa và muốn ở lại đó. Bàn tay này đủ mạnh mẽ để giúp tôi vượt qua mọi nguy hiểm của cuộc sống. Bàn tay này không bao giờ mất đi sức mạnh và sự toàn năng của nó. Chúa Giêsu đã ban điều này cho các môn đồ của Ngài như một sự an ủi không thể chối cãi: “Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp nó khỏi tay ta” (Giăng 10:28).
Ngài sẽ không làm bạn thất vọng,
Ngài biết đúng thời điểm,
Khi các dòng nước sủi bọt
Trong sức mạnh hoang dã.
Nếu chúng biến mất trước khi phun trào
Cuộc sống và thế giới,
Ngài nắm giữ bạn trong tay mình,
Ngài nắm giữ tất cả các tầng trời.
- Xem Chỉ Tay
Để tránh nhầm lẫn, một số thuật ngữ cần được làm rõ. Phần này nói về thuật xem chỉ tay, bói toán thông qua đường chỉ tay. Không nói về Chirology, là cách giải thích khoa học về hình dạng và đường nét bàn tay. Hơn nữa, nhận xét tính cách qua chữ viết tay (graphology), cách giải thích chữ viết tay cũng không được đề cập ở đây.
Xem chỉ tay có thể bắt nguồn từ người Babylon cổ đại. Những ý tưởng chiêm tinh đã được đưa vào xem chỉ tay từ giai đoạn đầu. Ngoài bốn đường chính (đường tình, đường lý, đường số mệnh và đường sinh mệnh), lòng bàn tay được chia thành bảy ngọn núi hành tinh. Từ ngón trỏ đến ngón út là: Núi Mercury (thủy), Núi Apollo, Núi Saturn (thổ), Núi Jupiter (mộc). Dưới ngón tay cái là gò sao Kim, dưới ngón út là núi sao Hỏa và núi sao Mặt Trăng.
Một loạt ví dụ sẽ lại được dùng để giới thiệu vấn đề mục vụ. Mặc dù đã đề cập ngay từ đầu rằng về mặt khái niệm, xem chỉ tay, xem tướng số và xem chữ viết tay phải được tách biệt, nhưng trên thực tế vẫn thường xảy ra sự nhầm lẫn nghiêm trọng. Đầu tiên, một ví dụ như thế này.
V 7 Một cô gái trẻ đến gặp một nhà nghiên cứu chữ viết để được giải nghĩa chữ viết tay và các đường nét trên bàn tay. Bản báo cáo nêu rằng cô sẽ bị sát hại khi cô 30 tuổi. Cô gái sau đó giải thích với người thân: “Nếu tôi phải chết sớm như vậy, thì tôi muốn tận hưởng cuộc sống một cách trọn vẹn nhất”. Cô ấy đã trở thành một gái điếm và người phá thai thực sự. Ở tuổi 24, cô mắc bệnh vì lối sống xa hoa và qua đời vì bệnh viêm loét đại tràng. Bản thân bác sĩ cũng nói rằng cô đã tự hủy hoại mình vì lối sống sa đọa. Điều đáng chú ý là sau khi tham khảo ý kiến của nhà xem tướng số (graphologist), cô gái đã phát triển khả năng ngoại cảm. Cô có thể đi lại và đi bộ bằng gậy.
Ví dụ này trước hết cho thấy nhà tướng số này là một nghệ nhân huyền bí. Ông đã lạm dụng thuật xem tướng cho mục đích bói toán. Hơn nữa, hình thức xem chỉ tay và bói toán phổ biến nhất cũng xuất hiện ở đây. Có nhiều hình thức xem bói mang tính gợi ý. Người được bói toán tư vấn sẽ mang lại sự viên mãn một cách có ý thức hoặc vô thức. Ở đây chúng tôi nhắc lại những điều sẽ được nói đến sau về quá trình tâm lý của việc bói bài. Theo quan điểm mục vụ, nhận xét thường được đưa ra ở đây trở nên rõ ràng rằng con người trở nên không cẩn trọng về mặt đạo đức thông qua việc xem bói. Nền giáo dục, truyền thống và phong tục của Cơ đốc giáo đã tạo ra những rào cản bảo vệ trong cuộc sống của chúng ta. Ngay cả những người xa cách Chúa cũng vô thức sống theo các giáo lệnh của thế giới Cơ Đốc, ngay cả khi họ âm thầm nổi loạn chống lại những thứ đó. Việc sử dụng sức mạnh huyền bí sẽ phá vỡ những rào cản này. Dòng lũ đen tối, u ám đang tràn vào cuộc sống bị bỏ hoang. Trong trường hợp của chúng ta, bản năng sống của cô gái vượt trội. Nó sẽ hủy hoại cô ấy. Chủ nghĩa huyền bí thúc đẩy mọi sự nghiện ngập và sai lệch. Trong nhiều trường hợp, người nhận được lời tư vấn huyền bí trở nên nóng tính, không kiểm soát được rượu và nicotine, và đắm chìm trong cuộc sống phóng túng.
Hậu quả của việc xem bói trở nên rõ ràng hơn trong những ví dụ tiếp theo.
V 8 Một cô gái trẻ được xem tướng số thông qua xem chỉ tay. Thầy bói nói với cô rằng cô sẽ bị ung thư và chết ở tuổi 40. Trên thực tế, người phụ nữ này đã giảm cân theo lời khuyên này trước tuổi 40 và từ đó sống trong ảo tưởng rằng mình sẽ mắc bệnh ung thư. Cô ấy đã giảm được tổng cộng 13,6kg và hiện chỉ nặng 38 kg.
V 9 Một người bạn đại học của tôi có em gái họ làm quản lý ở nhà thờ. Một ngày nọ, một người phụ nữ Digan xuất hiện ở cửa để bán đồ gia dụng. Vì giá cả quá cao nên cô gái từ chối mua bất cứ thứ gì. Sau đó, người du mục nắm lấy tay cô gái để xem vận mệnh của cô. Cô gái muốn rụt tay lại nhưng người phụ nữ thông minh đã dùng một mánh khóe tâm lý. Cô ấy nói nhanh: “Ồ, thú vị quá!” Cô sẽ kết hôn sau hai năm nữa.” Cô gái nào mà không lắng nghe khi được hứa hẹn sẽ kết hôn chứ! Cô ấy vui vẻ bắt tay người phụ nữ du mục. Cô gái tiếp tục lời tiên tri của mình: “Sẽ có nhiều người cầu hôn. Cô sẽ kết hôn với người to lớn nhất. Trong năm đầu tiên của hôn nhân, cô sẽ làm mẹ. Tuy nhiên, đường sống của cô đột nhiên bị cắt đứt. Cô sẽ chết trong lần sinh con đầu tiên.”
Trước khi tiếp tục lời tường thuật, trước tiên chúng ta cần tóm tắt ngắn gọn về bản chất của lời tiên tri này. Chắc chắn không cần đến bất kỳ năng lực tiên tri nào để có thể tiên đoán cho cô gái xinh đẹp rằng cô ấy sẽ kết hôn. Hơn nữa, người ta không cần phải là nhà tiên tri để nói với cô ấy rằng cô ấy sẽ trở thành một người mẹ ngay trong năm đầu tiên sau khi kết hôn. Cái kết đen tối với thông báo về cái chết chắc chắn chỉ là hành động trả thù của người phụ nữ du mục vì cô chẳng mua thứ gì của cô ta. Vì vậy, ở đây chúng ta cũng chỉ có một lời tiên tri sai lầm, một lời tiên tri thô sơ dựa trên sự ám thị (suggestion, gợi ý). Lời tiên tri này có tác dụng gì?
Trên thực tế, đã có một số chàng trai theo đuổi cô trong hai năm tiếp theo. Cô gái đã chịu ảnh hưởng của lời tiên tri. Cô ấy đã kết hôn với người đàn ông to lớn nhất. Trong năm đầu tiên, cô ấy cảm thấy mình như đang trở thành một người mẹ. Càng gần đến giờ sinh, nỗi sợ hãi của cô càng lớn. Cô ấy đấu tranh với lời tiên tri đen tối. Người thân và đặc biệt là chồng bà đã cố gắng khuyên cô từ bỏ ý tưởng vô lý này. Họ đã không thành công. Niềm tin vào Chúa của người phụ nữ trẻ không đủ mạnh mẽ để có thể chống lại sự mê tín dị đoan. Việc sinh nở diễn ra bình thường. Vài ngày sau, cô ấy bị sốt cao. Bác sĩ gia đình giải thích rằng không có lý do thực thể nào gây ra cơn sốt. Ba tuần sau khi sinh, tâm trí cô trở nên u ám. Bà được đưa vào bệnh viện tâm thần và qua đời sau ba ngày.
Chỉ những người không biết về tâm lý bói toán mới nói về lời tiên tri thực sự ở đây. Đây rất có thể là một gợi ý (suggestion, ám thị). Từ các cánh đồng truyền giáo của mình, chúng tôi biết rằng những người ngoại đạo bản địa hoàn toàn phụ thuộc vào lời tiên tri của các thầy lang và thầy pháp. Khi một pháp sư bộ lạc dự đoán ngày chết của một thành viên bộ lạc, lời dự đoán đó sẽ nhanh chóng trở thành sự thật. Đây được gọi là hiện tượng tâm lý thanatomania, chứng nghiện cái chết. Có một cái chết do ám thị (suggestion, gợi ý) không chỉ ở những người nguyên thủy, mà còn ở những người châu Âu văn minh. – Người Mỹ thậm chí còn tiến hành thí nghiệm trên tội phạm và cho kết quả khả quan. Một người đàn ông bị kết án tử hình bị bịt mắt. Sau đó, ông được thông báo rằng mình sẽ bị hành quyết bằng cách mở động mạch chính ở cổ. Chỉ một phút nữa thôi là anh ấy sẽ chết. Da trên cổ anh ta bị trầy xước nhẹ và cùng lúc đó, vòi nước gần đó được mở ra. Tên tội phạm cảm thấy vết cắt và nghe thấy tiếng nước bắn tung tóe. Trong vòng một phút, anh ấy đã mất đi ý thức. Chiêu này đã có hiệu quả.
Về nội dung bói toán và các hình thức tiên tri, Giáo sư Zucker trong “Tâm lý học mê tín” phân biệt giữa mê tín ma thuật và huyền bí, và hình thức thứ ba là linh cảm.
Mê tín ma thuật đang thịnh hành. nó sử dụng sức mạnh gợi ý và ma thuật. Nó can thiệp vào cuộc sống của người tìm kiếm lời khuyên một cách quyết đoán và mang tính định hình. Các ví dụ cho đến nay hầu hết đều ở mức này. Mê tín huyền bí có tính chất đồng cảm, đồng hóa. Nó làm việc theo trực giác, thiền định, cảm nhận con đường phía trước. Nó cũng bao gồm các kỹ năng kết hợp, khai thác, thích nghi và đồng hóa. Nếu nguyên lý của mê tín ma thuật là: cái tôi làm chủ thế giới, thì nguyên lý của mê tín thần bí là: cái tôi hòa nhập vào thế giới. Trong thực hành gõ, có hai loại cơ bản được phân biệt.
Người ta nói rằng khả năng tiên đoán thời gian có hai khả năng. Hoặc là con người, được cho là mang trong mình toàn bộ tương lai trong những điều cơ bản (dấu vết, điểm khởi đầu), được khai thác. Hoặc một chủ thể mang theo kế hoạch, một ý thức thế giới, được cho là chứa đựng tất cả các kế hoạch về vận mệnh của nhân loại trong chính nó. Đây là ý kiến của Giáo sư Osty, E. von Hartmann, Giáo sư Driesch. Chủ đề mang tính kế hoạch này có thể được giới truyền thông khai thác. Cả hai quan điểm đều dựa trên một mức độ nhất định của thuyết quyết định (determinism, predestination, tiền định).
Theo quan điểm Kinh thánh, cả hai phương pháp bói toán đều không thể chấp nhận được. Nhóm linh cảm thứ ba bao gồm những linh cảm, điềm báo, giấc mơ có thật, trải nghiệm nhìn thấy linh hồn thứ hai, hiện tượng thấu thị và cảm nhận, nói tóm lại là tất cả những tác động của khả năng ngoại cảm (mediumistic abilities). Nếu bạn muốn đọc một ví dụ hay về loại này, hãy xem “ví dụ kim cương” từ mục vụ chăm sóc và huyền bí học. Tôi không muốn nhắc lại ở đây để tránh trùng lặp trong nhiều ấn phẩm khác nhau.
Quan trọng hơn mọi sự phân biệt khoa học, dù chúng có thú vị đến đâu, đó là mối quan tâm về mục vụ. Mục đích là giúp đỡ những người bị bệnh tâm thần có bệnh lý lâm sàng không phù hợp với phương pháp điều trị tâm thần cổ điển. Để minh họa cho hậu quả của thuật xem chỉ tay, hai ví dụ nữa được đưa ra ở đây.
V 10 Một bà bói hoàn toàn bác bỏ mọi thứ thuộc về thần thánh. Một ngày nọ, có một cô gái có đức tin gặp bà trong một ngôi nhà. Khi biết về công việc xem bói kỳ lạ của bà, cô ấy đã đùa giỡn giơ tay ra. Cô ấy nghĩ tất cả đều là chuyện vô lý. Người phụ nữ xem chỉ tay của mình. Cô gái cười sảng khoái và không nhịn được thốt ra một câu chế giễu. Sau đó, cô gái cơ đốc trở nên chán nản và không còn tin tưởng nữa. Con cái của những người xem chỉ tay cũng cho thấy những hậu quả điển hình. Tất cả bọn họ đều mắc bệnh thần kinh và đi vào con đường tội lỗi dẫn đến sự trật bánh nghiêm trọng. Ở đây, những đặc điểm điển hình của hậu quả cũng rất rõ ràng: trầm cảm và mất kiểm soát.
V 11 Một người đàn ông đã tích cực hành nghề xem chỉ tay trong nhiều năm. Ông cũng làm nghề chữa bệnh bằng từ trường. Trong nhiều năm, bản thân ông cũng cảm nhận được ảnh hưởng có hại từ công việc kinh doanh đáng ngờ của mình. Ông muốn hướng về Chúa Giê-xu và Lời Chúa. Trong nhiều tháng, ông đã ép mình đọc Kinh Thánh, mặc dù ông cảm thấy có sự kháng cự mạnh mẽ bên trong. Mỗi khi tiếp xúc với những điều thiêng liêng, ông đều cảm thấy một sức cản kỳ lạ và một áp lực mạnh mẽ.
Trong ví dụ này, một khoảnh khắc mới xuất hiện. Bói toán phát triển hiện tượng kháng cự, phòng thủ bên trong chống lại mọi điều thiêng liêng. Khi những người bị gánh nặng bói toán muốn đến với Chúa, họ không thể tin. Những sự phòng thủ mạnh mẽ và nham hiểm xuất hiện nhằm ngăn cản họ đưa ra quyết định theo Chúa Giê-xu. Bất kỳ ai bị nhiễm và được “chích ngừa” bằng bói toán đều gần như miễn nhiễm với Chúa Thánh Linh. Những người như vậy thấy rất khó để quay về với Chúa Giê-xu.
- Bói Bài
Về mặt lịch sử, việc bói bài đã có từ nhiều thế kỷ trước. Người La Mã đã có một hệ thống bảng ghi lại các biểu tượng. Vào thế kỷ thứ 8, thẻ bài bắt đầu được sử dụng. Kỹ thuật xem bói bằng thẻ bài khá đơn giản. Mỗi lá bài đều có một ý nghĩa cụ thể, ví dụ: Ví dụ: 7 cơ: lá bài tình yêu, 10 cơ: lá bài hoàn thành ước nguyện, 10 bích: lá bài may mắn. Với 32 lá bài, có hàng ngàn cách kết hợp. Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu những vấn đề chính của việc đọc thẻ thông qua ví dụ.
V 12 Một nhà truyền giáo của Hội Truyền giáo Lều trại Đức đã có bài giảng trong lều phản đối việc bói toán và bói bài. Sau đó, người chủ tịch hiệp hội có mặt đã đối diện với nhà truyền giáo và giải thích với ông: “Thực ra anh muốn phản đối việc bói bài như thế nào? Tôi là người chia bài. Đây chỉ là một trò chơi vô hại trong phòng khách thôi.” – Ví dụ này từ Đức, một ví dụ tương tự từ Thụy Sĩ.
V 13 Một Mục sư người Thụy Sĩ đã tổ chức một hội chợ. Nhiều gian hàng truyện cổ tích được dựng lên ở trung tâm cộng đồng. Một gian hàng có tên là ” Đến với Thầy bói”. Chỉ cần bỏ ra 20 xu, trẻ em có thể vào phòng xem bói và được xem vận mệnh. Một trưởng lão nhà thờ đã vô cùng phẫn nộ vì sự vô lý này và đã cáo buộc vị mục sư về điều đó. Vị mục sư địa phương giải thích: “Đây chỉ là một trò đùa vô hại thôi.” Một cậu bé bước vào phòng xem bói của nhà thờ đã được trả lời rằng: “Tuần tới cậu sẽ bị ngã xe đạp.” Vài ngày sau, sự việc này thực sự đã xảy ra. Cậu bé bị gãy chân. Một cô gái nhận được lời tiên đoán của thầy bói: “Cô giáo không thích cháu.” Từ đó trở đi, cô gái phải chịu đựng rất nhiều vì sự ghét bỏ này của giáo viên.
Hai ví dụ đầu tiên này cho thấy thực tế là việc đọc thẻ không thể đơn giản hóa được. Hai đứa trẻ đã là nạn nhân của sự ám thị (suggestion, gợi ý). Hai người làm công tác thuộc linh là nạn nhân của lý thuyết lừa bịp duy lý trí trong nền giáo dục đại học của họ, vốn có một lỗ hổng nghiêm trọng trong lĩnh vực ma thuật (kiểm soát vật chất bằng tâm trí hoặc linh hồn) và bói toán (nghệ thuật bói toán).
Về việc bói bài không chỉ là một cách kiếm tiền bẩn thỉu mà còn liên quan đến khả năng siêu nhiên (bất thường), thần giao cách cảm (telepathy, đọc được suy nghĩ, khai thác suy nghĩ) và giao tiếp tiềm thức (giao tiếp, kết nối) đóng vai trò nhất định. Một ví dụ có thể làm rõ vấn đề.
V 14 Một cô gái mười sáu tuổi đến gặp thầy bói. Cô muốn biết mình sẽ phải đợi bao lâu để người bạn đời mà cô mong đợi xuất hiện. Thầy bói nhìn cô chằm chằm và nói: “Anh trai của cô đã gặp tai nạn xe máy nghiêm trọng vào năm ngoái. Có đúng thế không? ” “Đúng vậy.” “Mẹ của cô bị bệnh tim. Có đúng vậy không? ” “Đúng.” “Hiện tại cô đang bất hòa với cha mình. Có đúng vậy không? ” “Vâng, làm sao ông biết được tất cả những điều này? ” “Từ những lá bài.” Tuy nhiên, trên thực tế, thầy bói sở hữu khả năng thần giao cách cảm hiếm có và do đó có thể đọc được những lời này từ cô gái. Dựa trên những giải thích này, người khách hàng trẻ đã đặt trọn niềm tin vào người bói lá bài. Bây giờ thầy bói đưa ra thông tin về tương lai. Cô gái tin vào những lời tuyên bố mơ hồ đó và đã chuẩn bị tinh thần cho chúng. Cô khuất phục trước sự mê tín của mình và sự thôi thúc phải thực hiện ước mơ. Điều này cũng dựa trên Kinh thánh:
” theo như điều ngươi tin thì sẽ được thành vậy” (Ma-thi-ơ 8,13) Quá khứ được nhận thức đúng đắn sẽ kích hoạt quá trình tâm lý tạo ra sự thỏa mãn một cách vô thức. Một hình thức xem bài khác dựa trên khả năng ngoại cảm thực sự. Từ medial bắt nguồn từ tiếng Latin medium có nghĩa là phương tiện. (ND: còn có nghĩa là trung gian, truyền thông, phương tiện lên đồng) Thuật ngữ “thấu thị” (mediumistic), ám chỉ đến khả năng bí ẩn của một số người, rất khó để mô tả, có thể kích hoạt hoặc nhận thức các quá trình dường như vượt ra ngoài phạm vi của năm giác quan. Chúng ta hãy để một nhà ngoại cảm tự nói về mình.
V 15 Khi được hỏi, một người bói bài nói rằng bà bị một thế lực nước ngoài điều khiển vào thời điểm bà xem bói. Một linh lạ sẽ nhập vào bà. Sau đó, bà ấy sẽ phải nói những điều mà chính bà ấy không biết. Cảm giác đó sẽ chế ngự bà như thể bà bị nhập vào khoảnh khắc xem bói. Sau đó bà ấy sẽ trở lại hoàn toàn bình thường.
Với ví dụ này, chúng ta gần với kinh nghiệm trong Công vụ 16:16-18. Phao-lô truyền giáo ở Phi-líp. Một bà bói cắt ngang qua đường đi của đoàn truyền giáo của ông. Công vụ 16:16-18: “17 Nó theo Phao-lô và chúng ta, mà kêu la rằng: Những người đó là đầy tớ của Đức Chúa Trời Rất Cao, rao truyền cho các ngươi đạo cứu rỗi. 18 Trong nhiều ngày nó cứ làm vậy, nhưng Phao-lô lấy làm cực lòng, xây lại nói cùng quỉ rằng: Ta nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ mà truyền mầy ra khỏi người đàn bà nầy. Chính giờ đó, quỉ liền ra khỏi.”
Bà bói ngay lập tức bị tước mất khả năng xem bói. Sự kiện này của đoàn truyền giáo trẻ châu Âu rất có ý nghĩa.
Trước hết, chúng ta có thể thấy rằng bói toán là có thật và không phải mọi thứ đều là trò bịp bợm và lừa đảo. bà bói ở đây đã nói ra sự thật. Người phụ nữ này có được kiến thức từ trí thông minh siêu phàm, từ sức mạnh ma quỷ. Người ta cũng thấy rõ rằng bói toán cũng tuyên bố nội dung đạo đức. Hơn nữa, rõ ràng là việc xem bói cũng thể hiện nội dung đạo đức. Thông thường, những hoạt động hắc ám, ma quái của những người như vậy được ngụy trang bằng những hình thức tô điểm của cơ đốc giáo. Vị tông đồ ngay lập tức hiểu được nguồn gốc của khả năng xem bói này. Ông có khả năng kiểm tra và phân biệt các linh. Quyền năng thuộc linh của ông cũng được thể hiện rõ ràng trong công việc truyền giáo của ông. Danh Chúa Giê-xu có khả năng chống lại mọi âm mưu đen tối của thế giới bóng tối. Toàn bộ chiến thắng của phúc âm đã tỏa sáng trước thế giới ngoại giáo đầy rẫy ma quỷ.
Nhân danh Chúa Giê-xu, mọi xiềng xích và ràng buộc đã bị phá vỡ. Đứa trẻ tội nghiệp bị hành hạ đã được giải cứu. – Nhiều sự thật trong câu chuyện này liên tục được đưa ra ánh sáng trong nhiều biến thể bói toán.
Về mặt mục vụ, điều đáng quan tâm không phải là các vấn đề khoa học mà là hậu quả của việc xem bói và cách khắc phục chúng. Một vài ví dụ có thể làm rõ điều này.
V 16 Một sinh viên đã báo cáo về nhiều rối loạn tâm thần khác nhau trong cuộc thảo luận. Cô ấy sẽ bị lo lắng khi thi, có triệu chứng tê liệt và không có sức lực để tập trung vào công việc. Cô tạo ấn tượng rằng khả năng trí tuệ và tâm lý của cô bị phân liệt. Khi được hỏi, cô thừa nhận rằng cô thường xuyên đi xem bói. Tổ tiên của cô cũng là thầy bói.
V 17 Một học giả Cơ đốc là một thầy bói và đã làm nghề này trong nhiều năm không chỉ cho bản thân và gia đình mà còn để tư vấn cho các thành viên trong giáo đoàn của mình. Sau khi ông mất, vợ ông trở nên vô cảm với rượu. Bà trở thành một người nghiện rượu khét tiếng. Bà đã uống hết toàn bộ tiền lương hưu. Trong nhà bà ấy lúc nào cũng có cả một dãy chai lọ. Tệ hơn nữa, người vợ và con gái bà bắt đầu thực hành ma thuật trắng, tiếp tục truyền thống huyền bí của chồng. Cô con gái đã đi theo bước chân của cha mẹ mình. Cô cũng bị cuốn vào phong tục mê tín của mẹ mình. Khi cô 17 tuổi, tâm trí cô trở nên u ám. Cô ấy đã bị đưa vào trại tâm thần. Ma thuật và mê tín đã phá hủy toàn bộ gia đình này
V 18 Một chàng trai trẻ ngoan đạo đã kể cho tôi nghe về thời gian anh ấy đi lính. Anh là một hạ sĩ quan trong một đơn vị có một trung sĩ đọc thẻ bài cho tất cả các hạ sĩ quan. Vị sĩ quan trung cấp sùng đạo ban đầu đã cấm việc xem bói này. Cuối cùng, anh ta đã nhượng bộ cấp trên của mình. Thầy bói dự đoán rằng anh sẽ nhận được tin chia buồn vào ngày hôm sau. Hơn nữa, anh ấy mong đợi nhận được tiền chuyển khoản trong vài ngày tới. Trên thực tế, ngày hôm sau anh nhận được tin chú của anh đã qua đời. Năm ngày sau, khoản tiền được dự báo trước đã đến. Bố mẹ không bao giờ có thói quen chuyển tiền cho con trai. Việc chuyển tiền này chỉ diễn ra một lần. Sau lời khuyên này của thầy bói, viên sĩ quan ngoan đạo trở nên chán nản. Đời sống cầu nguyện của anh bị xáo trộn. Anh tìm đến một người đàn ông có đức tin để xin giúp đỡ mục vụ. Sau khi cầu nguyện và đặt tay, những trạng thái cảm xúc khó khăn đã hoàn toàn biến mất.
Có Một Số Vấn Đề Trong Loạt Ví Dụ Này. Bộ câu hỏi đơn giản nhất là những câu hỏi về tâm lý hoặc cận tâm lý (cận tâm lý = khoa học về các hiện tượng ngoại vi bất thường của cuộc sống, parapsychology = the science of the unusual peripheral phenomena of life). Liệu viên trung sĩ đó có thực sự có khả năng bói toán không? Điều này không rõ ràng trong ví dụ V 18. Có thể trung sĩ đã biết về căn bệnh nghiêm trọng của chú mình. Hơn nữa, anh ta có thể đang nghĩ đến việc cha mẹ sẽ gửi cho anh ta một món quà chúc mừng nhân dịp anh ta vừa được thăng tiến.
Sau đó, trung sĩ chỉ cần sử dụng bản năng tinh tế hoặc sự thấu hiểu từ xa để trích xuất thông tin này từ sĩ quan không ủy nhiệm. Có vẻ như không có bất kỳ bản xem trước thực sự nào.
Sau đó, trung sĩ chỉ cần khai thác thông tin này từ sĩ quan không ủy nhiệm bằng bản năngnhạy bén hoặc bằng sự đồng cảm thần giao cách cảm. Có vẻ như không có bản xem trước thực sự nào.
Bộ Câu Hỏi Thứ Hai Có Tính Chất Y Khoa. Những xáo trộn này có phải do việc xem bói gây ra hay do đó mà kích hoạt không? Phải chăng có một căn bệnh tâm thần tiềm ẩn (hoặc thậm chí là bệnh thần kinh), bùng phát trùng với việc xem bói?
Sự trùng hợp về mặt thời gian có phải đã bị hiểu nhầm là quan hệ nhân quả không? Vậy thì nguyên nhân và kết quả có bị nhầm lẫn không? Đây là những phản đối mà ngành tâm thần học (khoa học nghiên cứu về các bệnh lý về tinh thần và cảm xúc) luôn đưa ra.
Đằng sau những phản đối y khoa này là những vấn đề thần học Kinh Thánh nghiêm trọng. Y học và nhiều nhà thần học đều phủ nhận rằng các quá trình huyền bí có thể gây ra các rối loạn về tinh thần và thần kinh cũng như gây tổn hại đến đời sống đức tin. Đi xa hơn nữa là vấn đề liệu có tồn tại những thế lực ma quỷ ngoài con người có ảnh hưởng đến cuộc sống con người hay không.
Các bác sĩ tâm thần, trong bối cảnh này, gần như luôn giải thích các báo cáo trong Tân Ước về những người bị quỷ ám là những trường hợp mắc chứng cuồng loạn nghiêm trọng (severe hysteria). Nhiều nhà thần học theo quan điểm này và nói về quỷ ám như một căn bệnh, một khiếm khuyết. Trước hết, có những nhà thần học vẫn chưa hiểu được vỏ trứng duy lý của thần học tự do, đặc biệt là những người theo thần học của Bultmann. Họ hoàn toàn phớt lờ những sự thật có thật trong các câu chuyện Kinh thánh. Họ không có khả năng tiếp nhận các sự kiện trong Kinh thánh. Sự đồi trụy về mặt tâm linh với các trào lưu triết học của quá khứ hay hiện tại đã làm họ tê liệt trước Pneuma, tức là Chúa Thánh Linh …
Về cơ bản, trong Tân Ước, một khuyết điểm hoặc một căn bệnh sẽ được chữa lành, nhưng sẽ cần phải ra lệnh nhân danh Chúa Giê-xu trên những người bị quỷ ám. Người bói toán ở Phi-líp không có khuyết điểm, nhưng bị quỷ ám từ vực sâu. Vì vậy, Phao-lô không chữa lành cô bằng cách đặt tay và cầu nguyện, nhưng ông ra lệnh cho các tà linh phải ra khỏi cô nhân danh Chúa Giê-xu. Liệu pháp mà Chúa Giê-xu và các tông đồ thực hiện cho thấy mức độ tổn thương mà bệnh nhân đang phải chịu đựng được sáng tỏ. Những người bị bệnh về thể chất được đặt tay cầu nguyện và uy quyền đuổi quỉ được sử dụng để chống lại các linh ô uế và ma quỷ.
Nếu bây giờ chúng ta quay lại những câu hỏi y khoa ban đầu, thì chúng ta phải thiết lập một khoảng cách với ngành tâm thần học dựa trên Kinh thánh. Tất nhiên, y học thừa nhận rằng nhiều bệnh tâm thần có yếu tố ma thuật hoặc phức hợp. Điều này trở nên rõ ràng trong nhiều cuộc trò chuyện với người mắc chứng tâm thần phân liệt, những người thường khẳng định rằng họ đang bị ma thuật bức hại hoặc bỏ bùa. Tuy nhiên, quan sát này không phủ nhận thực tế khác rằng trong nhiều trường hợp, phép thuật là yếu tố chính và rối loạn tâm thần là tác động và hậu quả. 3000 trường hợp được điều tra cẩn thận là bằng chứng quan trọng. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu ngoại cảm, chẳng hạn như Giáo sư Tiến sĩ Bender từ Đại học Freiburg, còn biết về các căn bệnh phát sinh sau hoạt động huyền bí. Chúng ta hãy đề cập đến chứng loạn thần kinh chức năng. Chăm sóc mục vụ cho thấy rõ ràng rằng việc tham gia vào chủ nghĩa duy linh, ma thuật hoặc bói toán gây ra những rối loạn thường có thể được chứng minh về mặt y khoa. Tuy nhiên, trong hầu hết mọi trường hợp, tổn hại đến đời sống đức tin đều rõ ràng. Quan sát này chỉ ra rằng nguồn gốc của những thiệt hại như vậy chủ yếu dựa trên những sự kiện trong Kinh thánh.
Người đầu tiên chịu trách nhiệm điều trị cho họ là mục sư thần học, nếu ông ấy là một Cơ đốc nhân tin vào Kinh thánh, và cũng là bác sĩ tâm thần tin vào Kinh thánh.
- Thanh Que (bói gậy) và Con Lắc
Giống như nhiều nghi lễ huyền bí khác, nghi lễ sử dụng con lắc đang cố gắng được khoa học chấp nhận. Khoa học về bức xạ đã được phát triển và người ta khẳng định rằng mọi vật chất đều phát ra bức xạ. Người dò nước hoặc người đọc con lắc sẽ có thể đồng cảm với những tia xạ này. Mặt khoa học của vấn đề này được đề cập trong “Chăm sóc mục vụ và Huyền bí học” bắt đầu từ trang 101. Cuốn sách này đề cập đến những vấn đề mục vụ thực tế. Để tránh gây nhầm lẫn cho những người chưa hiểu biết, cần phải nói rằng những quá trình tương tự có thể được ghi lại bằng một thanh hoặc một con lắc.
Con lắc chỉ được dùng làm công cụ chỉ báo chính xác hơn. Để có thể đưa ra phán đoán khách quan, trước tiên chúng tôi sẽ đưa ra các ví dụ trong đó rõ ràng không thể chứng minh được hậu quả của sự xáo trộn.
Có những bác sĩ, mục sư, nhà truyền giáo, kỹ sư tin chắc vào tính hữu ích và độ chính xác của bói toán bằng con lắc (kết quả bằng thanh và con lắc). Họ tuyên bố rằng họ không cảm thấy tác dụng phụ nào ngoại trừ việc hệ thần kinh bị suy yếu.
V 19 Một người đàn ông 28 tuổi đã tự tử. Vì không tìm thấy thi thể nên cảnh sát đã tiến hành tìm kiếm. Anh rể của ông đã tham khảo ý kiến của một người dùng con lắc. Người dùng thuật con lắc đã yêu cầu một vật dụng của người đã chết. Người ta đã mang những cái tất của người đàn ông mất tích đến cho ông ta. Người dùng thuật con lắc đặt những chiếc tất xuống đất rồi dùng một thanh kim loại di chuyển xung quanh những chiếc tất theo hình chữ nhật. Sau đó, người dùng thuật con lắc đã cung cấp đúng thông tin cá nhân của người đàn ông đã chết. tên, ngày tháng năm sinh và nơi người chết nằm. Sau đó, người dùng thuật con lắc cũng tự kiểm tra thông tin của mình, lấy bản đồ và đi lại đến địa điểm người đàn ông đã chết. Con lắc xác nhận số đọc của thanh quẻ. Người anh rể đã đi cùng cảnh sát đến địa điểm đã chỉ định và thực sự tìm thấy người đàn ông đã chết tại địa điểm do người sử dụng thuật con lắc chỉ dẫn. Kẻ tự tử đã tự bắn mình trong một túp lều nhỏ trong rừng.
V 20 Một bác sĩ đến từ Alsace (giữa Pháp, Đức và Thụy sĩ) là một nhà tìm mạch nước ngầm. Ông coi khả năng này là món quà của Chúa. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là sự lo lắng và sự chống đối của ông với điều thuộc linh.
V 21 Một nhân viên bưu chính có khả năng tìm kiếm các mạch nước bằng cách sử dụng một cây gậy hoặc con lắc và cũng có khả năng xác định chính xác vị trí của cáp bưu chính bằng cách sử dụng con lắc. Ông cho biết ông cảm thấy hơi mệt mỏi sau khi dò tìm.
V 22 Một bác sĩ tự xây cho mình một ngôi nhà. Ông ấy muốn xây một đài phun nước trong vườn của mình. Một người bạn của ông, một mục sư Tin Lành, đã nghe về mong muốn này. Ông yêu cầu bác sĩ cho ông xem sơ đồ mặt bằng của ngôi nhà và khu vườn. Sau đó, ông cầm con lắc và xác định vị trí có thể tìm thấy nước. Thông tin của ông ấy là chính xác. Khi đào sâu hơn nữa, người ta tìm thấy nước ở vị trí đã chỉ định.
V 23 Một nhà truyền giáo có khả năng sử dụng con lắc từ tầng hai của một ngôi nhà để xác định xem có một người đàn ông hay phụ nữ đã đi vào tầng một bên dưới hay không. Anh ta cũng có thể xác định từ trên xuống dưới sàn nhà xem người phụ nữ ở tầng dưới có đang mang thai hay không và đứa trẻ sẽ có giới tính gì. Ông đã tiến hành nhiều thí nghiệm như vậy trước sự chứng kiến của bạn bè và đều thành công rực rỡ. Tương tự như vậy, trong nghĩa trang, người ta cũng có thể chỉ ra người được chôn dưới bia mộ là nam hay nữ. Tất nhiên, anh ta đứng sau tảng đá nên không thể đọc được tên.
V 24 Trong chuyến hành trình truyền giáo thứ hai của tôi tới Viễn Đông, tôi đã nghe về công việc của một nữ giáo sĩ. Tôi biết cô ấy rất rõ vì cô ấy là thành viên của một hội truyền giáo Đức. Người phụ nữ này đã làm việc ở Trung Quốc nhiều năm và có thể sử dụng con lắc để làm sáng tỏ hầu hết những câu hỏi chưa biết. Ví dụ, công nghệ này có thể xác định thời điểm một nhà truyền giáo đang mang thai một đứa trẻ từ khoảng cách 40 km. Bà có thể truyền đạt sự thật này cho những người vợ truyền giáo vào thời điểm mà công chúng vẫn chưa biết gì. Nó cũng chỉ ra đó sẽ là con trai hay con gái. Dự đoán của họ luôn đúng trong mọi trường hợp. Khi được hỏi về những khả năng này, nhà truyền giáo này trả lời rằng cô có thể điều chỉnh bức xạ phát ra từ người phụ nữ mang thai.
V 25 Một sĩ quan của Quân đội Cứu thế đã thực hành phương pháp con lắc trong nhiều năm. Khi con trai ông mất tích trong chiến tranh, ông đã cầm tấm ảnh của con trai để xem con mình còn sống hay không. Khi một chiếc vali của ông bị đánh cắp vào thời kỳ hậu chiến, ông đã thực hành con lắc hỏi nơi chiếc vali bị đánh cắp được cất giữ ở đâu. Trên thực tế, chuyển động của con lắc đã cho ông biết vị trí chính xác. Khi tôi hỏi liệu ông ấy có cảm thấy bất kỳ tác động tiêu cực nào từ việc thực hành con lắc, người hầu việc Chúa này đã nói là không. Ông tuyên bố rằng ông không cảm thấy có hại gì cho đời sống tôn giáo của mình.
Những ví dụ thoáng qua này đã cung cấp một số manh mối cho việc đánh giá. Trước hết, rõ ràng là lý thuyết lừa đảo này sẽ chẳng đưa bạn đến đâu cả. Có những người dò nước và dùng thuật con lắc có thể cung cấp thông tin chính xác, mặc dù nhiều nhà địa chất và các nhà khoa học khác phản đối mạnh mẽ điều này. Tất nhiên, chúng ta không được bỏ qua thực tế rằng có nhiều phép dùng thuật con lắc chỉ là thứ khó hiểu, lộn xộn và vô dụng. Hơn nữa, một số ví dụ cho thấy phương pháp tìm nước bằng cây gậy và tìm nước bằng con lắc là một lĩnh vực gây nhiều tranh cãi. Ở đây các bác sĩ, linh mục, nhà truyền giáo và công chức làm việc với con lắc được đề cập. Thế thì ai đúng? Những người ủng hộ cuồng nhiệt hay những người phản đối nhiệt thành? Lập luận sau đây là sai: Nếu các mục sư và những người khác trong Vương quốc Đức Chúa Trời làm việc với con lắc, thì cho rằng đó là một vấn đề vô hại. Chúng ta không thể nói rằng ngoại tình là được phép chỉ vì một nhà truyền giáo đã phạm tội ngoại tình. Lý luận sau đây một lần nữa có thể bị phản bác: Nếu một số người làm việc của Vương quốc Chúa không gặp bất kỳ tác động tiêu cực nào từ việc sử dụng con lắc thì nhận xét ngược lại sẽ không liên quan. Tôi biết có những trường hợp mà việc tìm nước bằng cây gậy dường như không gây ra hậu quả gì cho người mang ân tứ này. Tuy nhiên, không nên bỏ qua sự việc hậu quả cũng có thể tiềm ẩn (ẩn giấu). Đối với một số người, sự việc chỉ trở nên rõ ràng khi họ đang hấp hối hoặc thậm chí trước đó, khi họ muốn đến với Chúa. Chúng ta cũng phải giải cứu mình khỏi ý tưởng rằng bất kỳ ai rao giảng Lời Chúa đều là Cơ Đốc nhân được tái sinh. Lời của Thánh Kinh vẫn còn đúng cho đến ngày nay: “Làm sao họ có thể truyền giảng nếu họ không được sai đi? ” (Rô-ma 10:15 BDM2002). Một mục sư mà sử dụng con lắc có thể bị gánh nặng áp lực như một thành viên của một nghành nghề khác. Qua nhiều trường hợp chăm sóc mục vụ, tôi nhận thấy rằng linh mục Công giáo Emmenegger, ông điều trị bệnh nhân bằng thuật con lắc, thường truyền lại gánh nặng cho thân chủ của mình. Cách đây một thời gian, một mục sư Tin Lành cũng đã bị báo cáo và kết án vì những sai lầm nghiêm trọng trong quá trình điều trị bằng phương pháp con lắc.
Một sai lầm chết người là quan niệm rằng việc điều trị bằng phương pháp con lắc món quà của Chúa. Không chỉ có bác sĩ người Alsace (pháp, sát nước đức) được đề cập ở trên có quan điểm này mà một số linh mục cũng vậy. Vậy tình hình hiện tại thế nào? Khi xem xét nhiều lịch sử gia đình, người ta thấy rằng phép thuật tìm mạch nước ngầm, phản ứng con lắc, chữa bệnh bằng từ trường, thấu thị, cảm nhận bên ngoài, thị giác thứ hai và giấc mơ thực sự xảy ra ở những người có tổ tiên là những người niệm chú ma thuật hoặc nhà tâm linh tích cực. Do đó, những khả năng đặc biệt của con người này không phải là năng khiếu tâm linh (charismata), thậm chí cũng không phải là năng khiếu tự nhiên trung tính, mà đúng hơn là năng khiếu truyền thông. Có rất nhiều người sở hữu sức mạnh trung gian (medial powers) như vậy mà không hề biết. Đôi khi chúng được phát hiện một cách tình cờ. Đôi khi có trường hợp kỳ lạ xảy ra khi những người sở hữu năng lực ngoại cảm lại trở thành tín đồ và đến với Chúa Giê-xu. Đột nhiên, khi đi theo Chúa Giê-xu, họ khám phá ra những khả năng phi thường của mình và sau đó tin rằng đó là những ân tứ thuộc linh. Tất nhiên đây là một sự lừa dối. Trong công tác chăm sóc mục vụ, có một nhận xét như sau: Đôi khi, khi một người cải đạo, năng lực ngoại cảm của họ biến mất. Nhưng thông thường những khả năng đó bị kéo vào cuộc sống mới. Nếu một môn đồ của Chúa Giê-xu tha thiết cầu xin được giải cứu khỏi những khả năng này, người ấy sẽ được ban cho. Nhiều Cơ Đốc nhân thấy những khả năng này thật phiền phức. Markus Hauser giải thích rằng khả năng thấu thị của ông chỉ là một phiền toái chứ không phải là một ân tứ. Trong mọi trường hợp, những khả năng ngoại cảm này không được coi là ân tứ tâm linh. Khả năng ngoại cảm cũng không được thánh hóa bằng cách cải đạo. Những gì thu được trong sự phục vụ Satan từ tổ tiên, không được Chúa Thánh Linh tiếp quản và chấp thuận. (Công vụ 16:16) Mối liên hệ giữa con lắc và quyền lực trung gian sẽ trở nên rõ ràng qua hai ví dụ.
V 26 Một thanh niên được một bác sĩ y khoa chữa bệnh bằng phương pháp tự nhiên (naturopath), người này cũng thực hành con lắc và bùa chú. Sau khi điều trị, bản thân bệnh nhân đã phát triển khả năng ngoại cảm. Ông đột nhiên trở nên thấu thị và phát triển khả năng tác động đến mọi người từ xa.
V 27 Sau chiến tranh, một người phụ nữ đã treo một con lắc lên bức ảnh người chồng mất tích của mình. Sau đó, những phẩm chất thấu thị xuất hiện. Cô ấy đã có những trải nghiệm mộng du. Cô ấy có thể, như thể, gửi linh hồn mình đi qua những khoảng cách rất xa. Sự đau khổ về mặt tinh thần khiến cô phải tìm đến sự tư vấn mục vụ. Sau khi xưng nhận tội lỗi và dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa, những khả năng ngoại cảm này lại biến mất.
Có sự truyền tải năng lực ngoại cảm (trung gian, mediumistic powers) một cách có ý thức và vô thức. Khi được điều trị bởi những nhà huyền bí có năng lực ngoại cảm cao (highly mediumistic occultists), bệnh nhân được điều trị cũng trở nên có năng lực ngoại cảm ở mức độ nhẹ. Ở đây chúng ta có sự tương ứng của ma quỷ với việc đặt tay của các môn đồ Chúa Giê-xu trong Công vụ các sứ đồ. Qua việc đặt tay của các sứ đồ, nhiều Cơ Đốc nhân đã nhận được món quà là Đức Thánh Linh. (Công vụ 8:17; 19:6.) Ngoài ra còn có sự truyền đạt có ý thức giữa những người dò tìm nước và người sử dụng con lắc. Nhiều người đã kể với tôi trong quá trình chăm sóc mục vụ rằng họ đã nhận được khả năng cảm nhận nước nhờ một người cảm nhận nước giỏi đã nắm tay họ khi họ đang tìm kiếm nước. Rồi đột nhiên chúng cũng bị phát ban ở đuôi. Sự nhạy cảm ngoại cảm (trung gian) này vẫn tiếp tục còn sau đó. Sau đây là một số ví dụ về xung đột giữa các khả năng trung gian (ngoại cảm) và các quyền năng thuộc linh, theo kinh thánh, cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề căng thẳng hơn bất kỳ lý thuyết nào.
V 28 Một người phụ nữ mắc bệnh lý nội khoa đã đến gặp bác sĩ để khám. Việc chẩn đoán và xác định thuốc được thực hiện bằng con lắc. Người phụ nữ có thái độ tin Chúa này sau đó cảm thấy có những thế lực lạ đang tiếp cận mình. Những cám dỗ kỳ lạ này kéo dài trong nhiều tháng. Trong suốt thời gian có những cảm giác sợ hãi kỳ lạ này, bà đã tìm đến sự tư vấn thuộc linh.
V 29 Một cô gái có khả năng nhìn thấy tương lai từ khi còn nhỏ. Cô thường nhìn thấy bóng ma. cô cực lực phản đối những điều thiêng liêng. Trong một lần truyền giảng, cô đã tin vào Chúa Giê-xu và từ đó cô không còn chống đối mọi điều thiêng liêng nữa. Có lần bị bệnh, cô ấy đã vô tình đến với một người dùng thuật con lắc. Ngay lập tức, chứng rối loạn tâm thần và sự chống đối Lời Chúa và lời cầu nguyện của cố lại tái phát.
Ví dụ này xác nhận sự thật sau đây. Như đã nói ở trên, khả năng nhìn thấy được bằng thị giác thứ hai cũng là một trong những hiệu ứng ma thuật còn rơi rớt lại của các hoạt động huyền bí từ tổ tiên. Một triệu chứng đi kèm của những tác dụng ma thuật này thường là sự chống đối với mọi thứ thiêng liêng. Cô gái ở V 29 có cả hai triệu chứng. Sau khi cải đạo đến với Chúa, áp lực ngoại cảm (trung gian) đã biến mất. Sau khi điều trị bằng phương pháp con lắc, cả hai triệu chứng đều tái phát. Ở đây, tính chất trung gian (ngoại cảm, truyền thông) của việc dùng con lắc cũng trở nên rõ ràng. – Đặc điểm của sự kháng cự như một triệu chứng đi kèm sẽ được làm rõ hơn qua các ví dụ tiếp theo.
V 30 Một người phụ nữ khi cô ấy bị ốm đã tìm đến sự giúp đỡ của một người quen biết, dùng thuật con lắc. Cho đến lúc đó, cô ấy không nghĩ có gì sai với phương pháp này và chưa từng nghe bất cứ điều gì tiêu cực về chẩn đoán con lắc. Trong phòng chờ của bác sĩ, cô trở nên bồn chồn. Sự bồn chồn này tăng lên trong quá trình điều trị.
Cô ấy đã uống thuốc do người dùng thuật con lắc phát. Mức độ rối loạn tâm thần của cô ngày càng nghiêm trọng hơn. Cô không thể cầu nguyện được nữa, trở nên chán ghét Lời Chúa và ngày càng cảm thấy chán ghét mọi điều thiêng liêng. Không có ai đưa ra lời khuyên, cuối cùng cô ấy đã tự ý vứt thuốc đi. Chỉ đến lúc đó, cô mới đến để tư vấn thuộc linh và hỏi tôi nghĩ gì về chẩn đoán con lắc và xác định thuốc theo con lắc.
V 31 Một người sử dụng thuật con lắc tìm đến lời khuyên mục vụ của tôi. Ông thừa nhận một cách công khai rằng việc dùng thuật con lắc rất mệt mỏi và làm ông kiệt sức. Chuyên môn của ông trong việc cân bằng thực phẩm để xác định khả năng dung nạp của chúng. Ông giải thích rằng đường trắng có tác động tiêu cực đến ông, trong khi đường mía có tác động tích cực. Mật ong cũng cho kết quả dương tính sau khi đun nóng đến 60 độ. Trong những năm thực hành con lắc, ông đã quan sát thấy những thay đổi về mặt tâm lý ở bản thân. Ông ấy mất đi năng lượng và sự quyết đoán. Ông đã phát triển một sự nhạy cảm kỳ lạ. Có hiện tượng co giật thần kinh và nhạy cảm với máy sấy tóc và nước. Mỗi khi cố gắng đọc Kinh Thánh, ông cảm thấy ghê tởm và vô cùng chán ghét. Ông cảm thấy vô cùng ác cảm với Chúa Giê-xu và cả cây thánh giá. Vì chính ông nhận thấy những rối loạn tâm thần về mặt tôn giáo này có liên quan đến việc thực hành con lắc của mình, nên ông đã tìm kiếm sự giúp đỡ của mục sư và sẵn sàng phó thác cuộc đời mình cho Chúa Giê-xu.
Hai ví dụ này cho thấy cả người phụ nữ được điều trị bằng con lắc và người dùng con lắc năng động đều nhận thức được tác hại của việc thực hành con lắc thông qua cảm giác khỏe mạnh và khả năng quan sát rõ ràng.
Họ đã từ chối việc thực hành con lắc trước khi nhận được lời khuyên của mục sư về vấn đề này.
Tính chất Mâu thuẫn giữa hoạt động của con lắc trung gian (medial pendulum) và thẩm quyền cầu nguyện tâm linh sẽ được làm rõ bằng bốn ví dụ.
V 32 Một ngày nọ, một giáo sư y khoa yêu cầu một người dò tìm nước ngầm nổi tiếng đi khắp các ngôi nhà khác nhau của phòng khám bằng một thanh sắt và xác định phản ứng của thanh sắt đó. Lý do giáo sư đưa ra yêu cầu này là do quan sát thấy một trong những ngôi nhà của phòng khám có tỷ lệ tử vong đặc biệt cao. Khi những người bệnh nặng được đưa vào ngôi nhà này, tình trạng của họ thường trở nên tồi tệ hơn. Nhưng giáo sư không nói với người dò tìm nước ngầm về quan sát này. Ông muốn có một kết quả công bằng. Người dò tìm nước ngầm đã đi qua nhiều ngôi nhà khác nhau và thực sự tìm thấy những xung lực mạnh hơn ở “ngôi nhà chết chóc” đó. Vị giáo sư, người không tin vào hiện tượng cây gậy, đã lắp đặt các thiết bị che chắn trong ngôi nhà nói trên để hoàn tất thí nghiệm. Sự thành công thật đáng kinh ngạc. Tỷ lệ tử vong ngay lập tức giảm xuống. Để không thu hút sự chú ý của các đồng nghiệp, vị giáo sư này thường giữ im lặng về thí nghiệm này. Ngoài khả năng dò tìm nước, người dò tìm mạch nước này còn có khả năng thấu thị. Vào bất cứ lúc nào anh ấy có thể chỉ ra người thân của mình đang ở đâu. Các công ty bảo hiểm và đại lý bất động sản cũng sử dụng công nghệ này để xác định chất lượng đất, địa điểm xây dựng và nhà ở. Trong quá trình làm việc, nhà dò tìm nước ngầm và nhà thấu thị này tuyên bố rằng ông không thể cầu nguyện được nữa. Một sức mạnh bên trong muốn ngăn cản anh ta làm như vậy.
V 33 Một chủ công viên tôn giáo muốn tìm kiếm một con suối trong khu vườn của mình. Một người dò nước đã đo được hai vị trí trong công viên. Việc đào bới tiếp tục nhưng không có kết quả. Người tìm nước sau đó giải thích: “Chuyện đó chưa bao giờ xảy ra với tôi trước đây.” Người chủ công viên trả lời: “Tôi đã cầu nguyện về điều đó vì tôi không chắc liệu mình, với tư cách là một cơ đốc nhân, có được phép gọi một người dò tìm nước hay không.” Người dò tìm nước sau đó nói: “Ồ, đúng thế; thế thì tất nhiên là nó sẽ không hiệu quả!”
V 34 Một người sử dụng thuật con lắc thảo luận về mụn cóc, mụn cơm, bướu cổ, phát ban và những thứ tương tự. Ngoài ra ông cũng thử nghiệm trong lĩnh vực bùa chú gây tử vong. Ông ta còn tuyên bố rằng mình có thể khiến mọi người ốm rồi khỏe mạnh. Một người phụ nữ sùng đạo không biết gì về phép thuật của ông và nghĩ rằng ông chỉ là một bác sĩ y học tự nhiên đã đến gặp ông trong giờ tư vấn.
Cô cầu nguyện thầm trong phòng chờ. Đột nhiên ông nói với cô: “Cô có thể về nhà, tôi không thể giúp cô được.” Tuy nhiên, kể từ giờ phút đó, người phụ nữ này đã gặp phải nhiều thử thách. Cô ấy bị ám ảnh bởi nỗi buồn và ý định tự tử. Chồng cô, người không có lập trường rõ ràng về Chúa Giê-xu, đã tìm kiếm sự giúp đỡ tà thuật từ chính người dùng dùng thuật con lắc đó. Những đứa con mà vợ anh sinh ra sau quá trình điều trị này đều trở thành gánh nặng. Điều kỳ lạ là một bác sĩ đã gửi những bệnh nhân khó tính đến cho dùng thuật con lắc này
V 35 Trong một sự kiện truyền giáo ở miền Nam nước Đức, một tín đồ Cơ
đốc giáo ngoan đạo đã đến gặp tôi. Ông đã cho phép tôi công bố báo cáo sau đây. Khi còn trẻ, ông này phát hiện ra rằng cái thanh của mình đang bị rung. Bằng cách so sánh kết quả của những nhà tìm mạch nước ngầm khác, ông cũng thấy rằng mình có thể xác định chính xác vị trí và độ sâu của các nguồn suối. Tiếng tăm về khả năng của ông lan truyền nhanh chóng. Không chỉ nông dân mà cả các nhà công nghiệp cũng sử dụng nó để tìm kiếm nước. Các nhà sản xuất, những người đã tiết kiệm được chi phí khoan nước đắt đỏ nhờ thông tin chính xác của ông, đã trả cho ông một khoản phí hậu hĩnh. Cho đến nay vấn đề đã rõ ràng. Người dò tìm nước trẻ tuổi đã có được một lượng khách hàng biết ơn. Sau nhiều năm kinh nghiệm, một điều gì đó mới mẻ đã bước vào cuộc sống của người tìm nước này. Ông đã trải qua sự cải đạo của mình trong một sự kiện truyền giáo. Nhờ ơn Chúa, ông đã có thể tìm thấy Chúa Giê-xu. Không nghĩ gì đến độ nhạy của cái thanh, ông tiếp tục tìm kiếm nước. Nhưng bây giờ anh đột nhiên nhận ra những điều kỳ lạ về bản thân mình. Mỗi lần đi tìm nước, ông không thể cầu nguyện hoặc đọc Kinh Thánh trong khoảng hai ngày. Chỉ khi đọc Kinh thánh – chứ không phải khi đọc báo – mắt ông mới díu lại. Trong khi cầu nguyện, ông lập tức mất tập trung. Trong hai ngày, ông cảm thấy vô cùng bồn chồn. Qua quá trình quan sát lâu dài, ông đã phát hiện ra mối liên hệ giữa việc tìm kiếm nước và những xáo trộn trong đời sống niềm tin của mình. Kinh nghiệm này đã khiến người anh em tin kính này đến với tôi để được chăm sóc mục vụ. Ông tự nói về mình: “Khả năng tìm nước bằng thanh gậy của tôi luôn làm tê liệt đời sống thuộc linh của tôi trong một thời gian. Tôi phải từ bỏ nó, bất kể khách hàng cũ của tôi có hành hạ tôi và đưa cho tôi số tiền lớn đến mức nào.” – Đây là báo cáo của một nhà ngoại cảm có năng lực siêu nhiên. Cần lưu ý rằng ông không thu bất kỳ khoản phí nào. Những khách hàng biết ơn của ông đã tự nguyện tặng ông rất nhiều tiền.
Bốn ví dụ này cho thấy việc dò tìm đã làm tê liệt niềm vui cầu nguyện. Mặt khác, lời cầu nguyện của người theo Chúa ở V 33 khiến việc tìm kiếm nước trở nên bất khả thi. Người phụ nữ cầu nguyện trong phòng chờ đã làm tê liệt hoạt động của người sử dụng thuật con lắc ma thuật. Trong V 35, chúng ta thấy rằng sau khi cải đạo, chính nhà tiên tri này nhận ra rằng hoạt động ngoại cảm của mình đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc ông theo Chúa Giê-xu. Pneuma (Thánh Linh) và thuật giao tiếp ngoại cảm (trung gian, áp dụng sức mạnh huyền bí) là hai khái niệm loại trừ lẫn nhau.
Có một phần đặc biệt nói về hậu quả của việc dùng con lắc. Đây không phải là những tổn hại đến đời sống đức tin mà là những rối loạn có thể xác minh được về mặt y khoa.
V 36 Một thanh niên thất nghiệp đã nhờ một người sử dụng thuật con lắc tìm cho anh ta những việc làm còn trống. Với sự giúp đỡ của người đàn ông này, anh đã nhận được năm lời đề nghị trong một ngày. Anh ấy đã tìm được việc làm ngay lập tức, nhưng phải từ bỏ sau vài ngày vì anh ấy bị bệnh tâm thần. Anh đã bị đưa vào bệnh viện tâm thần trong nhiều tháng. Sau khi bình phục, anh tìm đến các nhà sư và họ lại đưa ra lời khuyên cho anh thông qua con lắc. Cuối cùng, anh tìm đến lời khuyên của một thầy phù thủy. Kết quả là vài ngày sau, anh lên cơn thịnh nộ và lại phải vào bệnh viện tâm thần.
V 37 Một thanh niên bị hen phế quản được một người chữa trị bằng thuật con lắc. Người này đã sử dụng con lắc để xác định chẩn đoán và loại thuốc phù hợp. Ngoài việc luyện tập con lắc, ông còn luyện tập các phép thuật. Ông đã sử dụng một câu thần chú từ sách thứ 6 và 7 của Môi-se (sách tà thuật) lên người thanh niên bị hen phế quản. Sau đó, ông dán miếng dán vào nhiều bộ phận khác nhau trên cơ thể bệnh nhân. Các miếng dán Hansaplast được phủ một lớp thuốc mỡ. Sau vài ngày, mủ thực sự đã hình thành bên dưới miếng dán. Mủ đã chảy ra nhưng bệnh hen phế quản vẫn chưa khỏi. Từ thời điểm này, chàng trai trẻ bắt đầu mắc phải các chứng rối loạn thần kinh và tâm thần. Anh cảm thấy trí nhớ của mình suy giảm, không còn khả năng tập trung học tập đúng cách và cảm thấy chóng mặt. Những xáo trộn này khiến ông phải tìm kiếm sự tư vấn mục vụ.
V 38 Người thuyết giáo của một cộng đồng truyền giáo dò tìm nước và quặng. Ông cũng sử dụng con lắc để xác định bệnh tật và hiệu quả của thuốc. Một giáo sư đại học Thụy Sĩ đã kiểm tra khả năng của ông. Trước sự chứng kiến của các bác sĩ và sinh viên, ông đã giới thiệu 20 bệnh nhân cho hành khách sử dụng thuật con lắc. Sử dụng con lắc, người sử dụng thuật con lắc đã có thể đưa ra chẩn đoán chính xác cho tất cả 20 bệnh nhân. Trước sự chứng kiến của các bác sĩ và sinh viên, ông đã giới thiệu 20 bệnh nhân cho người chữa bằng con lắc. Sử dụng con lắc, người điều trị đã có thể đưa ra chẩn đoán chính xác cho tất cả 20 bệnh nhân. Nhà truyền giáo này cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng của việc đi lại. Vợ ông đã gặp tai nạn chết người. Tất cả con cái của ông đều chết một cách bất thường. Bản thân ông đã ở trong bệnh viện tâm thần ba năm.
V 39 Một mục sư ở miền trung nước Đức chuyên chữa bệnh bằng con lắc và dùng thuốc. Ông cũng thực hiện chữa bệnh từ xa. Những người bệnh đã gửi cho ông những bức ảnh của họ và ông đã dùng con lắc để chẩn đoán. Sau đó, ông xác định loại thuốc thích hợp cho căn bệnh này. Một tín đồ Cơ đốc giáo sùng đạo cũng đã gửi cho ông bức ảnh của cô để yêu cầu ông chữa trị. Cô ấy đã nhận được chẩn đoán và thuốc. Sau đó cô phát điên và phải vào viện tâm thần. Người thân của cô đã báo cáo sự việc với chính quyền nhà thờ. Sau đó, vị Mục sư đã phải chịu trách nhiệm.
Bốn ví dụ về chăm sóc mục vụ này cho thấy một thực tế đã được quan sát hàng trăm lần rằng liệu pháp con lắc có thể mang lại sự giải cứu và chữa lành nhất định ở lĩnh vực hữu cơ. Tuy nhiên, sự nới lỏng trong lĩnh vực hữu cơ này phần lớn phải trả giá bằng sự rối loạn trong lĩnh vực tinh thần. Ngay cả nhà truyền giáo, một người thường xuyên dùng con lắc, cũng không thoát khỏi điều này. Mức độ bệnh tâm thần thay đổi theo cách mà người sử dụng con lắc tích cực sẽ gặp phải những căn bệnh phức tạp hơn do hoạt động thể chất của mình so với người sử dụng con lắc thụ động. Bản chất huyền bí của phương pháp dò tìm bằng con lắc được thể hiện rõ trong nhiều trường hợp từ thực tế là những người dò tìm bằng con lắc thường thực hành các phương pháp huyền bí khác như bùa chú, thông linh, thấu thị, từ tính chữa bệnh, v.v. Việc dùng con lắc ở đây cũng rất thuận tiện. Những thứ giống nhau thích giao lưu với nhau.
Nhiều năm trước, tôi có cơ hội tham gia với tư cách là người quan sát và phê bình thầm lặng trong một hội nghị dành cho người dùng thuật con lắc tại Học viện Tin lành ở Tutzing. Hội nghị được điều hành bởi một nhà thần học. Khoảng 60 người dùng thuật con lắc và chuyên gia tìm mạch nước từ nhiều nơi khác nhau ở Châu Âu đã tham dự. Những người dùng thuật con lắc phân biệt giữa cái gọi là con lắc về mặt vật lý và con lắc về mặt tinh thần. Về mặt vật lý, họ gọi hình thức này là những người sử dụng con lắc hoặc người dò tìm nước bằng cái cần que đi bộ trên một mảnh đất và tìm kiếm nguồn tài nguyên khoáng sản. Về mặt tinh thần, Họ gọi đó là con lắc tinh thần khi con lắc chỉ di chuyển trên một bản đồ. Đi ra ngoài thiên nhiên không phải là điều cần thiết để thực hiện thuật con lắc tinh thần. Ví dụ, một người dụng thuật con lắc người Thụy Sĩ cho biết anh ta có thể sử dụng bản đồ để tìm nơi có nước ở khu vực Tokyo (Nhật Bản). Trong trường hợp này, bản đồ là cầu nối tinh thần, là phương tiện liên lạc để có được những phát hiện như vậy.
Tất nhiên, phương pháp dò tìm bằng con lắc tinh thần không chỉ được sử dụng để tìm kiếm tài nguyên khoáng sản mà còn để trả lời bất kỳ câu hỏi nào mà người tìm kiếm lời khuyên có thể hỏi. Nhiều ông chồng đã dùng con lắc để tìm hiểu xem vợ mình có chung thủy với mình hay không. Kết luận và điểm nhấn của hội nghị dành cho người dụng thật con lắc này đó là nhà thần học hàng đầu đã bác bỏ lời chỉ trích của tôi và công nhận mọi hình thức con lắc và tìm kiếm nước bằng cần que, trước sự hoan nghênh nồng nhiệt của tất cả những người dụng thuật con lắc có mặt. Lý do nhà thần học này công nhận điều này là do có sự giải thích kỳ lạ về điều khoản đầu tiên của đức tin. Tuy nhiên, điều mà nhà thần học này thiếu chính là kinh nghiệm sâu rộng về tác động của phép dò tìm bằng cần que và thuật dao động con lắc. Vấn đề về cảm xạ học (radiesthesia) không thể được làm sáng tỏ chỉ thông qua sự suy ngẫm về mặt logic và thần học. Nếu được phép so sánh một cách sơ bộ: sự phục sinh của Chúa Giêsu không thể được nhận biết thông qua sự suy tư thần học, nhưng phải được trải nghiệm thông qua đức tin. Vì vậy, mọi chức năng ân tứ và trung gian (thông linh, ngoại cảm) đều không thể được chứng minh bằng những kết luận hợp lý (logic). Chủ tịch hội nghị đã mắc phải sai lầm này gây tổn hại đến dân Chúa.
Một sự chập mạch thứ hai là cơ sở cho đánh giá kỳ quái này về cảm xạ học. Người ta không thể chứng minh tính hợp pháp của quyền lực trung gian (ngoại cảm, mediumistic powers) chỉ dựa trên điều khoản đức tin đầu tiên. Vũ trụ và thiên nhiên bị cuốn vào sự sa ngã của nhân loại. Điều này có nghĩa là các quyền năng trực tiếp vẫn hiện diện ở Thiên đường đã không còn được bảo tồn ở dạng nguyên thủy.
Cuối cùng, cũng cần lưu ý rằng chúng ta chỉ có thể hiểu điều khoản đầu tiên của đức tin từ góc nhìn của điều khoản thứ hai và thứ ba. Xem xét mọi thứ một cách riêng lẻ sẽ dẫn đến sai lầm, như thực tế đã xảy ra. Cái gọi là “sự nhạy cảm với thiên nhiên” (nature sensitivity) này chính là niềm đam mê thiên nhiên. Nhưng sự say mê đó không đến từ Chúa Thánh Linh. Các tà giáo đã dạy chúng ta điều này một cách kỹ lưỡng. Người ta có thể phát triển niềm đam mê từ bất kỳ tín ngưỡng riêng lẻ nào. Từ bài đầu tiên là chủ nghĩa thần bí về thiên nhiên, từ bài thứ hai là chủ nghĩa thần bí về Chúa Giê-xu, từ bài thứ ba là chủ nghĩa cuồng tín quá quen thuộc. Nhưng chủ nghĩa thần bí và chủ nghĩa cuồng tín không liên quan gì đến con đường của Kinh thánh.
- Gương Ma Thuật (Mantic)
Có những cuốn sách giáo khoa huyền bí về phép thuật gương và thuyết thần bí gương. Nhà ma thuật gương muốn thực hiện các phương pháp điều trị từ xa, chữa bệnh, bùa chú theo dõi, bùa chú phòng thủ, bùa chú tình yêu và các hoạt động ma thuật khác với sự trợ giúp của một chiếc gương ma thuật. Người dụng gương ma thuật muốn sử dụng gương để tìm những thứ ẩn giấu, khám phá tội phạm, phát hiện những căn bệnh khó chữa, hiểu được các quá trình vật lý trong vũ trụ và nhiều hơn thế nữa. Không chỉ có gương ma thuật có thể được sử dụng như một công cụ huyền bí mà cả quả cầu thủy tinh, pha lê đá và các vật thể phản chiếu khác cũng vậy. Thậm chí một số người còn sử dụng mặt nước theo phương cách này.
Về Mặt Lịch Sử, khả năng nhìn qua gương hay nhìn qua pha lê đã có từ nhiều thế kỷ trước. Họa tiết này thậm chí có thể được tìm thấy trong câu chuyện cổ tích về chiếc gương ở trên tường. Tầm nhìn qua gương cũng có vai trò trong thuyết thần bí. Người ta nói rằng Jakob Böhme đã có được những suy nghĩ tốt đẹp nhất khi thiền định với quả bóng thủy tinh đựng nước của thợ đóng giày (Schusterkugel). Theo quan điểm tâm lý, việc nhìn vào gương có thể hỗ trợ cho quá trình tự ám thị hoặc tự thôi miên và kích hoạt các quá trình tiềm thức. (autosuggestion or autohypnosis and to triggering subconscious processes.) Đây là dấu hiệu cho thấy trong hình thức bói toán này, tiềm thức đóng vai trò chủ yếu. Tuy nhiên, vì những lực tiềm thức này phần lớn nằm ngoài tầm kiểm soát của ý thức trội (Oberbewußtsein) nên chúng cũng có thể là cánh cổng dẫn đến những sức mạnh siêu nhiên. Không phải vô cớ mà Phao-lô nói rằng chúng ta không chỉ tiếp cận, xử lý với thịt và máu, mà còn với các thần linh dưới bầu trời nữa (Ê-phê-sô 6:12). Một số ví dụ giới thiệu hình thức bói toán này.
V 40 “Đồi cây thông” (Tannenfelser), một người nông dân lớn có trang trại mang tên này, sở hữu rất nhiều cừu. Một ngày nọ, một số trong số chúng biến mất và không còn tìm thấy được nữa. Cậu bé chạy đến gặp vị thầy lang thần kỳ, người có thể giải quyết và làm sáng tỏ mọi điều bí ẩn bằng tấm gương của mình, và xin lời khuyên. Ông thầy lang pha lê đi vào phòng của mình và ở đó một lúc. Cuối cùng, ông ta lại đi ra và đưa ra thông tin sau: “Đi lên hồ “Đồi cây thông” đến con đường đầu tiên. Sau đó rẽ phải và leo thẳng lên núi. Có một tảng đá lớn trên đỉnh cao nhất. “Những con cừu mà chúng ta đang tìm kiếm đang nằm cạnh tảng đá này.” Cậu bé làm theo lời khuyên và tìm thấy đàn vật nuôi của mình.
V 41 Một người nông dân ở Thung lũng Kappler đến gặp nhà tiên tri pha lê và phàn nàn: “Đêm qua một con bò đã bị đánh cắp khỏi nhà tôi. Ông có thể cho tôi biết nó ở đâu không? Vị thầy lang dùng gương ma thuật đi vào phòng và tập trung vào chiếc gương của mình. Cuối cùng ông ta bước ra và giải thích: “Con bò của ông đang ở trong sân của Holzerjörg, trong chuồng, ẩn sau những kiện rơm. Hãy mang theo ba hoặc bốn người và một cảnh sát địa phương. Một nửa trong số các ông đi vào căn hộ và nửa còn lại đi thẳng đến chuồng trại.” Nạn nhân đã làm theo lời khuyên này và tìm thấy con bò của mình.
V 42 Một đêm nọ, gara và xe hơi của một người đàn ông vô thần đã bị cháy. Nghi ngờ có hành vi đốt phá, ông đã báo cảnh sát. Cuộc điều tra của cảnh sát không thành công. Để xác định thủ phạm, ông ta đã tìm đến một người đàn ông có kỹ năng sử dụng phép thuật gương. Nhà ngoại cảm lui về phòng làm việc của mình trong khoảng 20 phút. Sau đó, ông ta bước ra khỏi căn phòng nửa tối nửa sáng và đưa chiếc gương ma thuật cho người tìm kiếm và nói: “Đây chính là thủ phạm.” Ông nhìn thấy một người bạn học cũ trong gương và thốt lên kinh hoàng: “Điều đó không thể xảy ra. Chúng tôi rất hợp nhau.” Người thấu thị giải thích: “Gương không bao giờ nói dối!” Khi rời đi, nhà thấu thị thản nhiên nói: “Nhân tiện, ông sắp chết rồi.” Người đàn ông kinh ngạc sau đó đến gặp bạn học của mình, nhìn thẳng vào mắt người bạn ấy và hỏi: “Ông có liên quan gì đến vụ cháy gara của tôi không? ” Người bạn cũ đó rất bối rối và đã thú nhận hành vi đốt phá của mình. Khi được hỏi về động cơ, kẻ đốt phá thừa nhận rằng hắn ghen tị với những thành công trong kinh doanh của ông vì bản thân hắn cũng đã nhiều lần gặp thất bại trong các vấn đề chuyên môn. Sau đó, kẻ đốt phá yêu cầu nạn nhân giữ im lặng về vụ việc và nói rằng hắn sẽ hoàn trả tiền cho gara và chiếc xe, và nạn nhân đã làm như vậy ngay sau đó.
Khoảng bốn tuần sau cuộc trò chuyện với nhà ngoại cảm, người nạn nhân bị đốt xe và gara đã hét lên một tiếng kinh hoàng vào ban đêm. Vợ ông bị đánh thức bởi tiếng hét này, bà bật đèn và thấy chồng mình đang quằn quại trong những cơn co giật khủng khiếp. Bà ấy ngay lập tức gọi cho bác sĩ, người đã chuyển bệnh nhân bị bệnh nặng đến bệnh viện đại học. Từ đêm đó trở đi, ông đã bất tỉnh và phải ăn nhân tạo trong mười ngày. Trong thời gian bất tỉnh này, cộng đồng Hội Thánh đã cầu thay cho ông hàng ngày. Cuối cùng, bệnh nhân đã tỉnh lại và kể lại mọi chuyện mình đã trải qua trong mười ngày đó. Khi thức dậy vào ban đêm khi căn bệnh kỳ lạ này bắt đầu, ông thấy trong giấc mơ hoặc lúc nửa tỉnh nửa mê những bóng ma ghê rợn, hung dữ đang tiến đến gần mình, kéo ông vào cuộc hành trình xuống địa ngục. Trong trải nghiệm kỳ lạ này, mọi tội lỗi trong cuộc đời anh đều hiện rõ trước mắt. Ông cũng nhận ra từng bước cụ thể của vụ đốt phá, và cuộc tham vấn với nhà ngoại cảm cũng trở nên sống động trở lại. Những gã đàn ông da đen kéo ông vào vực thẳm đen tối của chúng giải thích với ông rằng tội lỗi của ông đã đầy đủ và bây giờ ông phải bị đóng đinh vì những tội lỗi đó. Ông đã trải qua một cuộc đóng đinh kinh khủng khiếp và đau đớn. Sau khi bị ngược đãi khủng khiếp và tra tấn liên miên, những bóng đen đó lại biến mất. Xung quanh ông lại trở nên sáng sủa hơn. Ông đã tỉnh lại. Sau đó, bác sĩ cho biết ông đã bất tỉnh trong mười ngày. Sau trải nghiệm khủng khiếp này, toàn bộ con người của nạn nhân bị cháy xe và Gara đã biến đổi. Người đàn ông không đi Hội Thánh, trước đây không muốn biết gì về Lời Chúa, từ đó trung thành tham dự các buổi lễ thờ phượng và các buổi học Kinh Thánh của cộng đồng. Ông thậm chí còn nhiệt thành đến mức vào Chủ Nhật, ông sẽ chở hàng xóm trên xe và đưa họ đến nơi học Kinh Thánh.
Ngoài tất cả những thông tin do nhiều thầy bói cung cấp, khó hiểu và không chắc chắn, thì ba ví dụ này cho thấy kết quả hữu ích của thông tin về gương ma thuật này. Trong hai trường hợp đầu tiên, tôi không thể theo dõi được tác động của tư vấn qua gương ma thuật. Trong ví dụ thứ ba, hậu quả về mặt tâm lý một lần nữa lại rõ ràng. Có lẽ nạn nhân bị cháy xe và gara đã trở thành nạn nhân của lời nguyền sáp ong sâu sắc khi thầy bói thản nhiên giải thích: “Nhân tiện, ông sắp chết rồi.” Nạn nhân vụ hỏa hoạn rất đau buồn khi biết thủ phạm chính là người bạn học của mình. Suy nghĩ của ông tập trung vào thủ phạm và câu chuyện đáng xấu hổ. Vào lúc đó, tâm trí có ý thức của ông bị phân tâm và tiềm thức của ông lại mở. Đây là thời điểm thích hợp nhất để chuyên gia tư vấn gương ma thuật đưa ra gợi ý của mình, sau đó gợi ý này sẽ đi vào tiềm thức. Căn bệnh này có lẽ là kết quả của lời nguyền (gợi ý) sáp ong sâu sắc này. Vì vậy, đây không phải là bản xem trước thực sự. Vì vậy, theo thuật ngữ của Giáo sư Zucker, đó không phải là một hành động bói toán huyền bí hay có khả năng tiên tri, mà là một hành động bói toán có sức ảnh hưởng và thần bí. Những ví dụ như vậy đủ để mục sư cảnh báo về mọi hình thức xem bói.
- Tâm Lý Trắc Nghiệm (Psychometry)
Từ “psychometric” có nghĩa giống như “đo lường tâm hồn”. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên bởi giáo sư người Mỹ Buchanan. Thật khó để mô tả bản chất của trắc nghiệm tâm lý. Tốt nhất là giới thiệu chủ đề bằng một vài ví dụ.
V 43 Một thanh niên đến gặp tôi để được tư vấn mục vụ có khả năng kỳ lạ là sử dụng một đồ vật để cung cấp thông tin cá nhân của người đó và những đặc điểm riêng của người đó. Mỗi trường hợp cụ thể sẽ được trình bày. Một ngày nọ, anh nhận được vài dòng viết tay từ bác sĩ gia đình nói rằng muốn kiểm tra anh. Bác sĩ không nêu rõ mẫu chữ viết tay này là của ai. Chàng trai tập trung vào từng dòng chữ rồi cung cấp thông tin chính xác về tác giả, nơi cư trú, hoàn cảnh gia đình, bệnh tật của người phụ nữ và nhiều thông tin khác. Bác sĩ phải xác nhận tính xác thực của thông tin.
Trong ví dụ này, câu hỏi duy nhất nảy sinh là liệu đó có phải chỉ là thần giao cách cảm hay không (telepathy). Có lẽ nhà tiên tri trẻ tuổi đã không lấy thông tin từ mẫu chữ viết tay mà từ bác sĩ. Lập luận này chỉ có thể áp dụng cho một phần thông tin. Người ta cũng nói những điều mà bác sĩ không biết nhưng khi kiểm tra lại thì thấy đúng.
V 44 Trong quá trình truyền giáo ở Thụy Sĩ, tôi đã gặp một nhà ngoại cảm chuyên chăm sóc mục vụ, người làm việc theo phương pháp trắc nghiệm tâm lý và có thể cung cấp thông tin chính xác 100%. Nếu bạn cho anh ta xem một vật dụng của một bệnh nhân lạ, chẳng hạn như khăn tay, anh ta có thể nêu tên căn bệnh của người đó. Một giáo sư từ Zurich đã kiểm tra khả năng này và xác định độ tin cậy của thông tin. Tôi biết một số trò trắc nghiệm tâm lý được thực hiện bởi nhà ngoại cảm này. Tương tự như vậy, ông có thể chỉ ra mọi người chết vì căn bệnh nào. – Một ví dụ trắc nghiệm tâm lý khác được báo cáo trong “Chăm sóc mục vụ và huyền bí” ở trang 90. Và V 19 của cuốn sách này cũng ở cấp độ này.
Câu hỏi khó ở đây là khả năng thấu thị tâm lý này xuất hiện như thế nào. Một số nhà nghiên cứu về ngoại cảm như Richet, Geley, Osty, Price, Gumppenberg, Gatterer tin rằng con người nhúng quần áo và tất cả các vật dụng hàng ngày. Người có khả năng thấu thị sẽ có khả năng nắm bắt và diễn giải những ấn tượng về mặt tâm linh – tinh thần này. Giải thích này trở nên rất đáng ngờ khi người ta cho rằng các nhà thấu thị có thể, với sự trợ giúp của một vật dụng, chỉ ra không chỉ quá khứ mà còn cả tương lai của người đó. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta đang ở đây trong lĩnh vực bói toán tâm linh. Giả định này được xác nhận khi người ta xem xét số phận của các nhà trắc nghiệm tâm lý. Trong công tác chăm sóc mục vụ, tôi có cơ hội tìm hiểu các phương pháp trắc nghiệm tâm lý. Người thấu thị trong V 43 là muốn đến với Chúa Giê-xu. Vào thời điểm này, ông đã phát triển hiện tượng kháng cự rõ rệt. Sự kháng cự với thần thánh trở nên mạnh mẽ đến nỗi ông mất khả năng tập trung suy nghĩ vào lúc cầu nguyện. Sau đó, tinh thần anh ấy lại hoàn toàn minh mẫn. Còn lúc đó ông thậm chí còn không thể lặp lại một lời cầu nguyện đã được đọc lên, mặc dù ông là người thông minh và muốn cầu nguyện. Mọi sự khích lệ từ Lời Chúa đều bị bỏ qua. Khi ông cầu nguyện, mọi thứ trước mắt ông trở nên tối đen. Sau đó tôi phát hiện ra rằng nhà tâm lý học này cũng có cuốn sách ma thuật nguy hiểm thứ 6và thứ7 của Môi-se đang được sử dụng. Hoàn cảnh này một lần nữa chỉ ra bản chất trung gian của phép thuật trắc nghiệm tâm lý: phép trắc nghiệm tâm lý trong xã hội của ma thuật đen.
Trên thực tế, vẫn còn nhiều hình thức xem bói khác nhau cần được thảo luận, ví dụ như: B. Bói toán dựa trên sự du ngoạn của linh hồn. Điều này cũng bao gồm nhiều suy đoán trong lĩnh vực Khoa học Cơ đốc giáo, Thần học và Nhân chủng học. Trong cuốn sách Chăm sóc mục vụ và Huyền bí của tôi, có liệt kê khoảng hai mươi hình thức bói toán. Kỹ thuật bói toán thường thay đổi, nhưng tinh thần và sức mạnh đằng sau nó vẫn như vậy.
- Quan Điểm Của Kinh Thánh
Kinh Thánh nhất quán trong sự phán xét, nghĩa là thống nhất trong sự sự bác bỏ. Không có thời đại nào của người dân Israel mà thầy bói được công nhận. Từ thời kỳ đầu của lịch sử cho đến thời Chúa Giê-xu và cho đến khi viết các sách Tân Ước, mọi hình thức bói toán đều bị bác bỏ. Sau đây là một số ví dụ:
Lê-vi-ký 20:6 “Nếu ai xây về đồng cốt và thầy bói mà thông dâm cùng chúng nó, thì ta sẽ nổi giận cùng người đó, truất nó ra khỏi dân sự mình“
Lê-vi-ký 20:27 “Khi nào một người nam hay nữ làm đồng cốt, hay là bói khoa, thì hẳn sẽ bị xử tử; người ta sẽ ném đá chúng nó: huyết chúng nó sẽ đổ lại trên mình chúng nó.“
Phục truyền luật lệ ký 18: 10-12 “10 Ở giữa ngươi chớ nên có ai đem con trai hay con gái mình ngang qua lửa, chớ nên có thầy bói, hoặc kẻ hay xem sao mà bói, thầy phù thủy, thầy pháp, 11 kẻ hay dùng ếm chú, người đi hỏi đồng cốt, kẻ thuật số, hay là kẻ đi cầu vong; 12 vì Đức Giê-hô-va lấy làm gớm ghiếc kẻ làm các việc ấy, và vì các sự gớm ghiếc ấy, nên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đuổi các dân tộc đó khỏi trước mặt ngươi“
Những gì đúng trong thời kỳ Moses cũng được áp dụng vào thời các vua và các nhà tiên tri.
1Sử ký 10:13 “Ấy vậy, vua Sau-lơ chết, vì tội lỗi mình đã phạm cùng Đức Giê-hô-va, và vì chẳng có vâng theo mạng lịnh của Ngài; lại vì đã cầu hỏi bà bóng“
Xa-cha-ri 10:2 “Vì các thần tượng nói sự hư không, các thầy bói thấy sự dối trá; chúng nó rao chiêm bao phỉnh dối, và ban sự yên ủi luống nhưng. Vậy nên dân tan đi như những con chiên, vì không có người chăn thì bị khốn nạn.”
Các câu Kinh Thánh khác là: : 1Sa-mu-ên 28, 6-21; Ê-sai 8, 19; 44, 25; Giê-rê-mi 29, 8; Ê-xê-chi-ên 21, 26; Mi-chê 3, 6-7.
Những câu Kinh Thánh Tân Ước Công vụ 16, 16-18 đã được đề cập đến.
Chúng tôi khẳng định ở tất cả những nơi này rằng bói toán, cả dưới hình thức khoa học lẫn hình thức sơ khai, đều nằm dưới sự phán xét của Chúa. Chúa đã từ bỏ họ. Đây chính là lý do cuối cùng tại sao lại có nhiều thiệt hại nghiêm trọng về thể xác và tinh thần xảy ra dưới nhiều hình thức bói toán. Những hậu quả này sẽ được tóm tắt ngắn gọn. Điều đáng lưu ý là việc tổng hợp các hậu quả chỉ thể hiện một dấu hiệu về tần suất xảy ra hiện tượng. Đây không phải là vấn đề nguyên nhân hậu quả đơn giản. Những điều sau đây rất phổ biến ở những người nghiện bói toán và huyền bí:
Về Mặt Tôn Giáo, kiểu người vô thần thể hiện sự chống đối với mọi điều thiêng liêng, cố chấp, nghi ngờ, phạm thượng và không có khả năng đối với niềm tin và cầu nguyện. Kiểu người “sùng đạo” thể hiện sự tự cho mình là công chính, kiêu ngạo về mặt tâm linh, thái độ giả hình, đạo đức giả và vô cảm với công việc của Đức Thánh Linh.
Về Mặt Tính Cách, có sự đam mê bất thường, xu hướng nghiện ngập, không ổn định (nicotin, rượu, lệch lạc tình dục), nóng tính, tham lam, buôn chuyện, ích kỷ, hay chửi thề, v.v.
Về Mặt Y Khoa, trong những gia đình có tiền sử xem bói, có một tần suất kỳ lạ các triệu chứng rối loạn thần kinh, tâm thần phân liệt và cuồng loạn, Cuồng nhảy tập thể (St. Vitus’ Dance, Tanzwut), những hiện tượng bại liệt, động kinh, dị tật, câm điếc, loạn thần đồng bóng (mediumistic psychoses), xu hướng mắc các bệnh về cảm xúc và tinh thần, v.v. (“Chăm sóc mục vụ và huyền bí học” trang 203).
Để tránh những hiểu lầm rất thô sơ, cần lưu ý ở đây rằng không được nhầm lẫn giữa hai thuật ngữ bói toán và tiên tri. tiên tri đến từ trên, bói toán đến từ dưới. Lời tiên tri đến từ sự soi dẫn của Chúa Thánh Linh, bói toán là sự soi dẫn của ma quỷ, của Satan. Người bói toán ở Phi-líp có linh của vực sau. Nhà tiên tri Agabus trong Công vụ 21:10 nhận được sự chỉ dẫn từ Đức Thánh Linh. Chúng ta phải cẩn thận để phân biệt rõ ràng giữa các thuật ngữ này.
- Giải cứu khỏi gánh nặng huyền bí
Có sự giải cứu khỏi bùa chú và hậu quả của việc xem bói. Cuộc gặp gỡ của Sứ đồ Phao-lô với bà bói ở Phi-líp đã dẫn đến sự giải cứu hoàn toàn và ngay lập tức cho người phụ nữ. Danh Chúa Giê-xu đã thực hiện quyền năng này chống lại các linh đen tối của vực sâu. Chiến thắng của Chúa Giê-xu trên thập tự giá tại đồi Golgotha là lời nhắc nhở rằng quyền lực của bóng tối và các thế lực của địa ngục đã bị đánh bại. Do đó, việc điều trị cho những người có xu hướng xem bói không phải là nhiệm vụ chính của bác sĩ tâm thần, người chỉ chịu trách nhiệm về các vấn đề y khoa thuần túy, mà là trách nhiệm của mục sư Cơ đốc giáo. Về cơ bản, sự giải cứu chỉ có thể đạt được thông qua Chúa Giê-xu. Do đó, người đang gặp vấn đề về bói toán phải đến với Chúa Giê-xu. Trên con đường này, một lời xưng nhận tội lỗi chung là điều không thể tránh khỏi. Trong Kinh thánh, việc xưng tội là một vấn đề tự nguyện. Chúng ta, những người theo đạo Tin Lành, phản đối mọi hình thức ép buộc. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa tìm thấy bất kỳ ai trong công tác mục vụ được giải cứu khỏi gánh nặng ma quỷ mà không cần đến sự xưng tội. Có thể tìm thấy hướng dẫn mục vụ chi tiết trong phần Tâm linh. Một số ví dụ về sự giải cứu được đưa ra ở đây chỉ nhằm mục đích khích lệ bạn.
V 45 Một cô gái xuất thân từ gia đình sùng đạo làm việc trong một nhà máy lớn. Trong phòng ban của cô có một người phụ nữ chuyên bói bài cho tất cả các cô gái trong công ty. Cô gái tin Chúa đã do dự rất lâu trước khi quyết định xem bói bài, vì từ khi cô còn nhỏ, mẹ cô đã cảnh báo cô không nên làm điều đó. Cuối cùng, sự tò mò đã chiến thắng. Cô ấy đã đi xem bói. Các lá bài được xáo trộn và đặt trên bàn. Đột nhiên, bà bói nói với cô gái: “Ta không thể xem được bài của cô.”
V 46 Một phụ nữ trẻ đã trải qua phương pháp điều trị huyền bí để chữa một căn bệnh hữu cơ. Người hành nghề y học thay thế đã thử dùng thuốc cho cô ấy. Một ngày nọ, ông thầy pháp giải thích với cô rằng cô sẽ bị liệt sau vài năm nữa. Sau năm năm, người phụ nữ này thực sự bắt đầu bị liệt ở nửa người bên phải. Cánh tay và một phần chân bị tê liệt và không thể cử động. Đồng thời, cô không thể cầu nguyện hay đọc Kinh Thánh nữa. Một nỗi sợ hãi kỳ lạ xâm chiếm lấy cô. Sau khi xưng tội chung, tôi cầu nguyện với người phụ nữ bằng cách đặt tay theo Gia-cơ 5:14. Từ thời điểm đó, chứng tê liệt đã biến mất.
V 47 Một người phụ nữ thường xuyên đến gặp thầy bói. Cô cũng đã tham khảo ý kiến của một người sự dụng con lắc nhiều lần. Từ đó trở đi, cô liên tục gặp phải những hiện tượng ma quái kỳ lạ trong ngôi nhà của mình. Cô nghe thấy tiếng cào cấu, tiếng gõ cửa và nhìn thấy những bóng ma mờ ảo. Những quan sát này làm cô sợ. Cô đã tìm kiếm sự giúp đỡ mục vụ và được chỉ cho con đường đến với Chúa Giê-xu. Sau khi cô cải đạo, những hiện tượng ma quái này đã biến mất khỏi ngôi nhà. Ba ví dụ đầu tiên này cho thấy sức mạnh của đức tin nơi Chúa Giê-xu. Cô gái đến từ gia đình tôn giáo được bao quanh bởi những lời cầu nguyện của người thân. Người ta thường trải nghiệm những điều như thế này: những người được cầu nguyện nhiều sẽ được bảo vệ trong thời điểm nguy hiểm. Sức mạnh ma thuật của nhà huyền bí đột nhiên bị tê liệt. Ví dụ thứ hai một lần nữa cho thấy sức mạnh gợi ý (tự kỷ ám thị) của việc xem bói. Việc quay về với Chúa đã giải cứu người phụ nữ khỏi bùa chú ám chỉ. Trong ví dụ thứ ba, không rõ liệu người phụ nữ đó có thực sự có trải nghiệm nhìn thấy ma một cách khách quan hay đó chỉ là một căn bệnh (ảo giác). Trong mọi trường hợp, khi quay về với Chúa Giê-xu, cô đã được giải cứu khỏi những xáo trộn kỳ lạ. – Sau đây là hai ví dụ về sự giải cứu từ hai người dùng thuật con lắc mạnh nhất mà tôi từng gặp.
V 48 Một bác sĩ đã phát hiện ra khả năng dùng thuật con lắc. Ông đã tiến hành thí nghiệm trong tám ngày. Khi một bệnh nhân mới bước vào phòng khám, trước tiên bác sĩ sẽ mời bệnh nhân đó ngồi ghế. Sau đó, ông đi vào phòng bên cạnh và sử dụng bảng chữ cái để xác định tên, họ và bệnh tật. Kết quả hoàn toàn phù hợp với kết quả kiểm tra sau đó. Những thành công này đã khuyến khích bác sĩ thử lại. Khi một y tá ở khoa của ông gọi đến để báo cáo về bệnh nhân mới, ông cũng thực hiện quy trình tương tự. Sử dụng bảng chữ cái, ông tìm ra tên, họ, bệnh tật và độ tuổi của những bệnh nhân mà ông vẫn chưa biết đến. Kết quả sau đó đúng với thực tế. Những thành công đáng ngạc nhiên này đã khuyến khích ông thực hiện những thí nghiệm ngày càng khó khăn hơn. Nếu muốn biết thời gian khởi hành hoặc đến của một chuyến tàu, con lắc có thể cung cấp thông tin chính xác. Ông cũng có thể sử dụng con lắc để xác định tên, tuổi, mối quan hệ gia đình, v.v. từ bức ảnh một nhóm. Người dùng thuật con lắc được cung cấp đủ loại cơ hội xem bói và thấu thị.
Trong những thí nghiệm này, bác sĩ đã quan sát thấy những thay đổi về mặt tâm lý ở chính mình. Ông trở nên mất kiểm soát trong vấn đề tình dục, cũng như nghiện rượu và nicotine. Ông dễ nổi giận và không còn nhận ra chính mình nữa. Chỉ sau tám ngày thử nghiệm con lắc, ông cảm thấy và sợ rằng mình sắp phát điên. Ông dừng việc sử dụng thuật con lắc và cố gắng tìm con đường đến với Chúa trong sự bối rối bên trong mình. Ông đã được giải cứu hoàn toàn khỏi những quyền lực con lắc này. Vị bác sĩ này hiện cho rằng phản ứng con lắc dựa trên các thế lực ma quỷ, vì ông đã trải qua những hậu quả đặc trưng không chỉ trong lĩnh vực tâm lý mà còn trong thái độ niềm tin của mình.
V 49 Tại một hội nghị truyền giáo ở Thụy Sĩ, tôi đã gặp một nhà truyền giáo có câu chuyện cuộc đời là chiến thắng của ân điển Chúa. Khi còn trẻ, bị vợ phản bội, ông đã tìm đến một thầy bói. Vì tất cả những lời tiên đoán của thầy bói đều thành sự thật nên ông đã tự mình học nghệ thuật này vì tò mò. Ông ấy bắt đầu dùng con lắc và kiểm tra đồ ăn theo cách này. Ông sớm chuyển sang những thí nghiệm có lợi nhuận cao hơn. Ông đã dùng thuật con lắc biết được giá của đối thủ cạnh tranh và đã thành công. Sau đó, khi ông có được bảng giá của các công ty đối thủ, họ đều đồng ý với kết quả của ông. Vào ban đêm, ông ta tác động đến khách hàng bằng chiếc gương ma thuật và ép họ phải đặt hàng. Cuối cùng ông cũng chuyển sang điều trị bệnh nhân. Ông đã chẩn đoán chính xác và tìm ra loại thuốc phù hợp. Ông cũng có thể sử dụng những câu thần chú để chữa đau răng, cầm máu, chữa bệnh thấp khớp, thực hiện các phương pháp điều trị từ xa và nhiều hơn thế nữa. Bất cứ khi nào cần xác định vị trí của các vật thể bị mất, con lắc luôn đưa ra lời khuyên. Tóm lại, trong hai trường hợp.
Một ngày nọ, một chiếc máy bay thương mại bị rơi trên núi. Sau nhiều cuộc tìm kiếm không thành công, chính phủ đã đưa ra giải thưởng. Ông lấy tập bản đồ và con lắc và xác định rằng địa điểm rơi máy bay là chân núi Piz Duan (Thụy sĩ). Ông đã báo cáo kết quả của mình. Thí nghiệm của ông đã bị bỏ qua, nhưng sau đó người ta tìm thấy xác máy bay tại địa điểm đã ông đã chỉ ra. Có lần, người ta đang tìm kiếm một vận động viên trượt tuyết bị ngã từ trên dốc xuống ở Valais. Với sự trợ giúp của con lắc và bản đồ, ông đã nhanh chóng tìm thấy người mất tích. Điểm nổi bật của các thí nghiệm con lắc này là khả năng dự đoán thời gian. Khi Sudetenland được sáp nhập vào Đức năm 1938, ông đã hỏi con lắc rằng liệu chiến tranh có xảy ra hay không và khi nào sẽ xảy ra. Con lắc chuyển sang tháng 9 năm 39. Dự đoán này đã trở thành sự thật. Giống như nhiều người đi làm khác, ông tin rằng mình đã nhận được món quà này từ Chúa. Hơn nữa, ông coi con lắc này là một khoa học mới. Một ngày nọ, một cuốn sách Cơ đốc giáo nhỏ được ấn vào tay ông. Ánh mắt ông dừng lại ở đoạn văn Phục truyền luật lệ ký 18:10-12: “Bất cứ ai làm những điều như vậy đều là điều gớm ghiếc đối với Chúa.” Ông ta bị sốc bởi lời nói này như bị sét đánh. Ông rơi vào nỗi đau khổ tột cùng, vứt bỏ sách vở về con lắc và sách ma thuật và đấu tranh để giải thoát. Chỉ đến lúc này ông mới nhận ra mình đã phục vụ ai. Trong một cuốn sách nhỏ, ông viết: “Ác quỷ, kẻ có quyền đối với linh hồn tôi thông qua hành động của tôi, đã đánh đập và hành hạ tôi không ngừng.” Ông đã hoàn toàn phá sản về mặt nội tâm. Trong nhiều tháng, ông đã chiến đấu và vật lộn cho sự giải phóng. Một nhóm cầu nguyện đã cầu thay cho ông. Trong 15 tháng, ông ấy đã trải qua nhiều thăng trầm. Những giờ phút vui vẻ và đức tin xen kẽ với những giờ phút buồn bã. Ông vẫn không thể thoát khỏi phép thuật của mình vì ông chưa từ bỏ mọi thứ liên quan đến phép thuật. Ông vẫn coi việc dùng con lắc là một khoa học. Cuối cùng, ông đã được ban tặng điều là có thể bẻ gãy con lắc. Đột nhiên mọi áp lực biến mất và một sự bình yên lớn lao hiện hữu trong cuộc sống của ông. Ông đã tìm thấy sự chắc chắn về sự tha thứ mọi tội lỗi. Chúa Giê-xu Christ đã trở thành trung tâm cuộc sống của ông. Từ đó trở đi, ông ta luôn trung thành phục vụ chủ nhân của mình. Trong một trong những buổi truyền giáo của tôi ở Zurich, ông đã có bài phát biểu bế mạc về chủ đề: Từ nhà pháp thuật đến nhà truyền giáo. Toàn bộ chương kết thúc bằng một ví dụ cho thấy lợi ích của văn học khai sáng.
V 50 Một thanh niên trong nhóm Cơ đốc giáo đã học cách làm việc với con lắc. Anh chàng coi đây là một ngành khoa học mới. Anh đã đính hôn với một cô gái sùng đạo, người đã giúp anh nhận thức được những nguy hiểm khi dùng con lắc. Cô tặng anh cuốn sách “Dưới sự phù phép của quỷ dữ” của Modersohn. Anh ấy nhận ra lý do mình dùng con lắc và cố gắng giải thoát. Mọi nỗ lực đều không thành công. Hiện tượng ma quái xuất hiện trong căn hộ của anh. Người đính hôn của anh đã thành lập một nhóm cầu nguyện nhỏ để cầu thay cho anh. Cuộc đấu tranh kéo dài trong một năm cho đến khi anh được giải thoát hoàn toàn nhờ Chúa Giê-xu. – Vì mục đích này, Con Đức Chúa Trời đã xuất hiện để hủy phá công việc của ma quỷ.
Vậy là chúng ta đã tìm hiểu kỹ các hình thức bói toán chính. Vẫn còn một điều cần làm rõ nữa: Bói toán là gì?
Hội bói toán đen tối và những hoạt động tham nhũng của họ là lời buộc tội chống lại chúng ta, những người tự nhận mình là Cơ đốc nhân. Lời buộc tội này có thể gián tiếp mang lại hiệu quả tốt lành. Chúng ta phải học những gì?
Đầu tiên, chúng ta phải tin tưởng lại vào CHA trên trời, Đấng biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta cầu xin Ngài. Ngài thực hiện lời hứa với chúng ta: Ê-sai 41:10 “Đừng sợ, vì ta ở với ngươi; chớ kinh khiếp, vì ta là Đức Chúa Trời ngươi! Ta sẽ bổ sức cho ngươi; phải, ta sẽ giúp đỡ ngươi, lấy tay hữu công bình ta mà nâng đỡ ngươi”
Thứ hai, chúng ta có thể được ban cho món quà là bước đi trong ánh sáng của Chúa Giêsu. Ngài nói với chúng ta: Giăng 8:12 “Đức Chúa Jêsus lại cất tiếng phán cùng chúng rằng: Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo ta, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống.” Bị chói lòa trong ánh sáng tràn vào, các loài sâu bọ chạy trốn dưới những tảng đá lộ thiên. Còn bói toán là cặn bã của địa ngục. Con sâu đen tối này ẩn núp trước ánh sáng của Chúa Giê-xu, Đấng có đôi mắt như ngọn lửa.
Thứ ba, tệ nạn xem bói giữa những cơ đốc nhân kêu gọi một sự phải được đầy dẫy Đức Thánh Linh để chống lại. Có hàng ngàn người ân tứ đến từ địa ngục. Nhưng những người đầy dẫy Đức Thánh Linh và được trang bị quyền năng từ trên cao thì trở nên rất hiếm. Những trải nghiệm xuất thần hay sự cuồng tín thái quá đều không phải là câu trả lời theo Kinh thánh chống lại cơn lũ phương tiện truyền thông u ám của thời đại chúng ta, nhưng những cơ đốc nhân cho phép bản thân bị tan vỡ trong sâu thẳm con người mình và đầu hàng một lần nữa trước Thiên Chúa thánh khiết ba ngôi. Ê-phê-sô 5:18 “phải đầy dẫy Đức Thánh Linh.” Đây là câu trả lời mà một người ân tứ thật trong Kinh Thánh đã đưa ra cho chúng ta.
Mặt trận cuối cùng của Kinh thánh chống lại mọi trò bói toán là: Không phải Bê-li-am – mà là Đấng Christ!
Chương 2: MA THUẬT – Nguồn gốc, mục đích và sự phát triển của ma thuật _ từ góc nhìn chăm sóc mục vụ
Nhiệm Vụ Canh Gác Của Sự Khai Sáng
Hàng ngàn lời xưng tội đã cho tôi thấy một cách kinh ngạc về việc con người hiện đại bám víu vào các phong tục và tập tục ma thuật cổ xưa đến mức nào, mặc dù trình độ khoa học đã đạt đến mức độ cao. Nếu những quá trình ma thuật này chỉ là mê tín vô hại thì không cần phải làm rõ chúng ngay lập tức. Nhưng nhiều người đã chết về mặt thuộc linh vì ma thuật. Một chiến dịch truyền giáo gần đây đã chứng minh tình trạng khẩn cấp này một cách rõ nét. Một mục sư giải thích với hội đồng giáo hạt: “Nếu 49 trong số 50 thành viên nhà thờ được cải đạo trong những bài thuyết trình khai sáng này và một người cảm thấy bối rối, tôi sẽ từ chối hoạt động truyền giáo này.” Bất chấp sự phản đối này, công cuộc truyền giáo đã được tiến hành với quyết định nhất trí của tất cả các trưởng lão. Trong tuần đó, có hơn một trăm người đã đăng ký nhận sự chăm sóc mục vụ. Các cuộc thảo luận cho thấy nhiều người hành nghề huyền bí và bác sĩ tự nhiên đang gây rắc rối trong cộng đồng này. Mỗi ngày có nhiều người được họ chữa trị bằng ma thuật và bị gánh nặng. Trong công tác chăm sóc mục vụ, tôi liên tục nghe những lời cáo buộc từ những người mắc bệnh tâm thần: “Tại sao chúng ta không được giáo dục từ trên bục giảng để chống lại những hình thức ma thuật và phù thủy này? ” Vì vậy, chúng ta có phán quyết từ hai phía, ý kiến của giáo sĩ địa phương và ý kiến của giáo đoàn. Vì vậy, chúng ta có thể đảo ngược lời phản đối trên và hỏi: “vì thiếu sự khai sáng (giác ngộ) để 49 người lạc lối và để họ bị những gánh nặng nhất từ những pháp sư để ai đó được bảo vệ khỏi những nguy hại có thể xảy ra của sự giác ngộ? ” Nếu chúng ta muốn ngăn ngừa tác hại theo cách này, thì mọi hoạt động giáo dục về phòng ngừa nguy cơ nghiện ngập và các bệnh truyền nhiễm cũng phải dừng lại. Hơn nữa, những suy nghĩ thiển cận của chúng ta về việc liệu chúng ta có cần phải khai sáng hay không đều không liên quan. Theo Kinh Thánh, chúng ta có công việc canh gác. Tiên tri Ê-xê-chi-ên (3:17-21) nhận được lệnh từ Chúa để cảnh báo kẻ ác. Là thành viên của Hội thánh Chúa Giê-xu, chúng ta không thể trốn tránh nhiệm vụ này.
Nhiệm vụ canh gác này là một nhiệm vụ khó khăn nhưng đầy hy vọng. Những gì có thể nói về sức mạnh đen tối của các thế lực bóng tối xuất phát từ chiến thắng của Chúa Giê-xu. Ma quỷ và bè lũ của nó là một thực thể khủng khiếp, nhưng chúng đã bị Chúa Giê-xu đánh bại và tước quyền trên thập tự giá. Bất cứ ai đến với Chúa Giêsu đều đứng trên nền tảng chiến thắng. Đấng Christ đã được trao toàn quyền trên trời và dưới đất. Đó là lý do tại sao chúng ta không sợ hãi. Bất cứ ai đọc chương này đều phải hướng mắt về Chúa Giê-xu, Đấng mà chúng ta đang đặt mình dưới bàn tay quyền năng của Ngài.
- Khái Niệm Về Phép Thuật
Chúng ta hiểu thế nào về phép thuật? Câu trả lời cho câu hỏi này luôn phụ thuộc vào vị trí của người đánh giá. Nhà tâm lý học, bác sĩ, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà báo, nhà triết học, nhà huyền bí học, nhà thần học tự do, nhà thần học phi thần thoại và tín đồ của Chúa Jesus – tất cả họ đều có quan điểm khác nhau về phép thuật và bày tỏ quan điểm này. Có rất nhiều ý kiến khác nhau ở đây, từ lý thuyết vô lý đến tình trạng nghiện ngập. Từ kinh nghiệm chăm sóc mục vụ của tôi, tôi muốn nói rằng: Ma thuật là nghệ thuật gây tranh cãi, hoặc ít nhất là nỗ lực nhận ra và kiểm soát thế giới tâm linh, thế giới con người, động vật và thực vật, cũng như vật chất chết, bằng các phương tiện ngoại cảm với sự trợ giúp của các phương tiện và nghi lễ bí ẩn. Chúng ta hãy cùng giải thích ngắn gọn những chi tiết cụ thể của định nghĩa này.
Sự tồn tại của phép thuật đang được tranh luận sôi nổi. Ngành tâm thần học thông thường coi phức hợp ma thuật chỉ là triệu chứng của bệnh tâm thần. Tâm lý học trường lớp coi những người bị ma ám chỉ là kết quả của sự phát triển bất thường, thái độ mê tín và quan điểm sống lệch lạc. Thần học tự do, ngay cả ở dạng hiện đại nhất, coi phép thuật là kết quả của các phong tục và ý tưởng gắn liền với một thời đại cụ thể.
Bản chất đạo đức của phép thuật cũng không kém phần gây tranh cãi. Một số người ca ngợi chúng là món quà của Chúa, những người khác lại coi chúng là những lực lượng tự nhiên, trung tính có thể được sử dụng theo hướng tiêu cực hoặc tích cực. Những người khác, đặc biệt là các mục sư, biết về bản chất ma quỷ của phép thuật.
Tại sao việc đánh giá các quá trình ma thuật lại khó khăn đến vậy? Định nghĩa trên đã đưa ra câu trả lời. Hành động ma thuật xảy ra thông qua phương tiện ngoại cảm. Năm giác quan của chúng ta chỉ bao phủ một khu vực nhỏ. Điều này không chỉ đúng với sự thật vật lý mà còn đúng với sự thật tâm linh. Trong vật lý, mọi người vui vẻ thừa nhận điều này vì khoa học cung cấp bằng chứng về phạm vi ngoại biên. Trong các vấn đề tâm linh, không thể chứng minh bằng toán học, đó là lý do tại sao những người theo chủ nghĩa duy lý thiển cận này phủ nhận cả thần thánh và ma quỷ.
Chúng ta hãy chỉ ra những cách thức ngoại cảm được định nghĩa này đề cập đến. Tôi sẽ cho bạn một số ví dụ.
Ví dụ 1 Ở Alsace (ở giữa Pháp-Đức), một linh mục Công giáo thực hành phép chữa bệnh. Ông có biệt danh là “Vua dép lê”. Những người tìm kiếm sự giúp đỡ phải gửi cho ông ta một chiếc dép. Ông tập trung vào “phần ngoại biên” này và sau đó có thể đưa ra chẩn đoán chính xác.
V 2 Ở Áo, trong quá trình chăm sóc mục vụ, tôi đã gặp những người được gọi là người thử nước tiểu. Nước tiểu của bệnh nhân không được xét nghiệm y khoa để tìm protein, đường, hemoglobin và các tạp chất khác mà chỉ đóng vai trò là công cụ tiếp xúc tâm lý để xác định chẩn đoán bằng khả năng thấu thị. Những người thử nước tiểu như vậy cũng có ở Thụy Sĩ, Pháp, Đức và các nước châu Âu khác.
V 3 Một người Hà Lan có nhiều khả năng ngoại cảm. Người chữa bệnh có thể tác động tích cực đến họ bằng cách nhìn chằm chằm vào họ mà không để bệnh nhân chú ý. Ông cảm thấy sức mạnh để thực hiện điều này truyền từ một vòng tròn nhỏ trên trán, giữa hai mắt, rồi qua mắt đến bệnh nhân. Sức mạnh chữa lành thứ hai đến từ đôi tay của ông. Trụ sở của sức mạnh này là một chiếc nhẫn hoặc dải băng quanh não. Sức mạnh này lan tỏa qua vai, qua cánh tay, từ bàn tay đến người bệnh. Một ví dụ về sự chữa lành của người Hà Lan này. Một người đàn ông 75 tuổi mắc bệnh tim đã sau một cơn đau tim, bác sĩ đã bó tay. Trong khi bệnh nhân không hề để ý, người chữa bệnh bằng năng lực vẫn chăm chú nhìn ông ta trong một phút. Bệnh nhân bị bệnh nặng đã hồi phục và sau đó có thể đạp xe lên dốc và xuống dốc 30 km.
Điều kỳ lạ là những phương pháp phép thuật như vậy lại thường đáng tin cậy. Những phương pháp chữa bệnh và chẩn đoán bằng phép thuật này sử dụng sức mạnh ngoại cảm.
Định nghĩa này đề cập đến nhiều vật thể ma thuật khác nhau. Chủ nghĩa duy linh cố gắng thiết lập mối liên hệ với thế giới tâm linh và kiểm soát nó. Trong cuốn sách Đấng Christ hay Sa-tan, mười sáu hình thức duy linh hiện đại được trình bày bằng cách sử dụng gần ba mươi ví dụ. Về định nghĩa của vấn đề này, quá trình nhận thức vấn đề như thế nào, được trình bày trong phần về bói toán với sự trợ giúp của hơn bốn mươi ví dụ.
Những đối tượng khác của phép thuật là con người, động vật, thực vật và vật chất chết. Thuật sĩ cố gắng khuất phục và kiểm soát kẻ thù bằng phương tiện ma thuật. Ví dụ sẽ được đưa ra sau. Những người khác cũng cố gắng tác động đến đời sống động vật và thực vật. Một số ví dụ cho thấy điều này.
V 4 Một người vắt sữa đã thực hành ma thuật đen trong nhiều năm. Nghề của ông ta là ăn cắp sữa của những người nông dân hàng xóm. Ông ta buộc một chiếc khăn vào tay nắm cửa, lẩm bẩm những câu thần chú và vắt sữa từ chiếc khăn. – Tôi đã lấy những ví dụ như vậy trong công tác mục vụ chăm sóc. Tôi không thể kiểm chứng được điều đó.
V 5 Một nhà truyền giáo kể với tôi rằng bà ấy đã gặp động vật hoang dã nhiều lần khi đến thăm một nhà pháp thuật. Bà ấy ngay lập tức cảm nhận được thế lực ma quỷ đang hoạt động. Khi bà ra lệnh nhân danh Chúa Jesus, các loài vật bỏ đi. Sau đó, bà biết được rằng kẻ thuật sĩ đã khoác lác rằng hắn sẽ sai động vật hoang dã đến gặp người phụ nữ ngoại và xé xác bà ta thành từng mảnh.
V 6 Một thanh niên, được bác sĩ mô tả là mắc chứng tâm thần phân liệt, đã thú nhận với tôi trong quá trình chăm sóc mục vụ rằng anh ta có khả năng giết những con vật nhỏ từ xa mà không cần sử dụng bất kỳ phương tiện nào khác ngoài sức mạnh ma thuật của mình.
V 7 Ở Toggenburg (Bang St. Gallen, pháp), tôi đã nhiều lần được thông báo trong quá trình làm công tác mục vụ rằng họ (những người từng xưng tội) có thể giết ngựa, bò và lợn bằng ma thuật đen. Khi tôi hỏi họ làm sao có được khả năng này, họ giải thích rằng họ đã cắt máu ăn thề với quỷ dữ. Một số nhà khoa học đã điều tra về vụ giết hại động vật bí ẩn này, nhưng họ không thể tìm ra nguyên nhân của những sự kiện này.
V 8 Một người nông dân gặp nhiều vụ mùa thất bát đã nhận được lời khuyên từ một thuật sĩ là hãy đặt ba hạt giống dưới lưỡi khi gieo hạt. Sau khi gieo hạt xong, người gieo hạt phải nhổ ba hạt giống xuống đất, đọc một câu thần chú và kết thúc quá trình bằng ba danh hiệu cao nhất (Chúa ba ngôi). Điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển và bảo vệ cánh đồng khỏi mưa bão. Trên thực tế, người nông dân tin rằng ông đã nhận được phước lành từ việc làm thần chú trên đồng ruộng này. Từ đó trở đi, ông không còn muốn biết bất cứ điều gì về Lời Chúa nữa. Ngoài ra, tai nạn ở chuồng trại cũng tăng đáng kể.
Phạm vi ảnh hưởng của phép thuật không chỉ bao gồm thế giới hữu cơ, sinh vật sống, mà còn bao gồm thế giới vô cơ, vật chất chết. Ví dụ:
V 9 Ba chị em ngủ chung một phòng trong nhiều năm. Trong căn phòng kín, thỉnh thoảng có đá rơi từ trần nhà xuống. Khi người chị cả đính hôn và rời khỏi nhà, sự việc đá rơi đã dừng lại. Một trong ba chị em đã báo cáo với tôi về sự việc này. Những trận đá rơi bí ấn như vậy không phải là hiện tượng hiếm gặp. Tôi đã nghe những lời kể của nhân chứng về việc này.
V 10 Một người đàn ông đã luyện tập ma thuật đen trong nhiều năm. Một thí nghiệm đặc biệt mà ông thực hiện nhiều lần là đâm dao xuống đất. Ông ta lẩm bẩm một câu thần chú. Mỗi lần, một xô máu chảy ra từ vị trí đâm dao. Chị gái của pháp sư đen này cũng là một chuyên gia trong lĩnh vực ma thuật. – Mặc dù điều này có vẻ khó tin, nhưng tôi đã được nghe những
điều tương tự nhiều lần trong công tác chăm sóc mục vụ.
Có những điều vô lý nhất xảy ra trong thế giới ma thuật. Nếu mọi thứ chỉ tồn tại trong tưởng tượng và mê tín, không có bối cảnh thực tế nào, thì lĩnh vực này sẽ là vực thẳm của sai lầm và đau khổ của con người, cần được khai sáng và giúp đỡ khẩn cấp. – Các câu hỏi tiếp theo liên quan đến định nghĩa sẽ được giải đáp ở các phần sau.
- Nguồn Gốc, Mục Đích Và Sự Phát Triển Của Phép Thuật
Ngay tại ngưỡng cửa của nhân loại, có lệnh truyền về văn hóa của Chúa: “Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất.” (Sáng thế ký 1:28). Nhiệm vụ và quyền lợi của con người là chinh phục trong hòa bình các thế lực trên trái đất theo ý muốn của Chúa. Satan, kẻ gây rối lớn, đã chống lại mệnh lệnh văn hóa này bằng sự cám dỗ ban đầu: Các ngươi sẽ giống như Đức Chúa Trời, hiểu biết và quyền năng (Sáng thế ký 3:5). Đối trọng của mệnh lệnh văn hóa là ma thuật, sự khao khát kiến thức và sự phấn đấu giành quyền lực trái ngược với ý muốn của Chúa. Điều này đặt thế hệ trẻ vào ngã ba đường.
Ngã rẽ đã được vạch ra: tự nguyện tuân theo ý muốn của Chúa hoặc sự ép buộc ma thuật để biết và ham muốn quyền lực trong cuộc nổi loạn chống lại các điều răn và giới hạn của Chúa. Những Khúc rẽ này vẫn còn được đưa ra cho đến ngày nay. Hoặc là chúng ta cho phép mình được tham gia vào cấu trúc thiêng liêng của trật tự cứu rỗi, hoặc là chúng ta tham gia vào cuộc nổi loạn và, trong sự cạnh tranh khủng khiếp với Chúa, muốn kiểm soát các quyền năng và thực thể sáng tạo. Do đó, phép thuật là sự nổi loạn nguyên thủy từ thuở ban đầu cho đến hiện tại và là đỉnh điểm của sự nổi loạn của con người chống lại Chúa. Mọi lời bàn tán về các lực lượng tự nhiên vô hại và ứng dụng trung lập đều là sự vô lý khi xét đến sự thật trong Kinh thánh.
Theo quan điểm chính thức, ngành nghiên cứu về hiện tượng ngoại cảm (parapsychology) vẫn biết đôi điều về bản chất kép của phép thuật. Người ta phân biệt giữa hiện tượng nhận thức (Psi-Gamma = gignoskein) và hiện tượng Psi-Kappa (kinein = di chuyển). Một lần nữa chúng ta có hai yếu tố cơ bản của phép thuật, nhận thức và sức mạnh ngoại cảm.
Trong công tác chăm sóc mục vụ, nhiều cuộc thảo luận đã chỉ ra cho tôi bốn cách khác nhau mà sức mạnh truyền thông linh (media powers, trung gian, đồng bóng) xuất hiện: Di truyền, Đơn thuốc của quỷ dữ,
Những thí nghiệm huyền bí, Sự chuyển giao huyền bí.
Sau đây là một số manh mối. Đầu tiên, kết quả của nhiều bản xưng tội cho thấy khả năng ma thuật là di truyền. Hoạt động truyền thông linh (trung gian, Mediumship) thường có thể bắt nguồn từ bốn thế hệ trong một gia đình. Một mặt, vật chất di truyền mang theo những khả năng đen tối này, mặt khác, những sức mạnh này được truyền lại qua quá trình kế thừa. Điều này đề cập đến phong tục mà người cha sắp chết sẽ trao lại sức mạnh ma thuật của mình cho con trai hoặc con gái cả để ông có thể ra đi thanh thản. Nếu trẻ em không muốn có những khả năng này, những thảm kịch thường xảy ra trên giường hấp hối. Người hấp hối có thể rên rỉ quằn quoại trong nhiều tuần: “Xin hãy lấy nó đi, để tôi có thể yên nghỉ.” Đôi khi, những người họ hàng xa hoặc người hoàn toàn xa lạ đồng ý sử dụng khả năng phép thuật. Mức độ mà lòng trắc ẩn, sự tò mò hoặc động lực quyền lực đóng vai trò khác nhau tùy từng trường hợp. Cái chết của những pháp sư như vậy thường bị trì hoãn trong nhiều tuần cho đến khi “sự kế vị” được giải quyết. Vì vậy, không chỉ có sự kế thừa tông đồ, mà còn có sự kế thừa ma quỷ.
Một hình thức khác để phát triển sức mạnh ma thuật là đơn thuốc của quỷ dữ. Có lẽ điều này có thể được coi là tương đương với phép báp têm (rửa tội). Ma thuật ở mọi khía cạnh đều là sự song song, tương đồng của ma quỷ với các sự kiện trong Kinh thánh. Các đơn thuốc của ma quỷ là những trường hợp mục vụ khủng khiếp nhất.
V 11 Ở Paris có một nhà thờ huyền bí mang tên: “Chúng tôi phục vụ hoàng tử của thế giới này”. Giáo hội này có các giáo đoàn con ở Basel, Bern và gần đây hơn là ở Rome. Tất cả thành viên của giáo hội huyền bí này phải tuyên thệ trung thành với quỷ dữ khi gia nhập. Vậy thì đó chính là phép rửa tội bằng ma thuật đen.
V12 Một người đàn ông ở Toggenburg, Thụy Sĩ, đã hành nghề y học tự nhiên và chữa bệnh rất phát đạt trong nhiều năm. Ông có thể chữa khỏi ngay cả những trường hợp mà ngay cả bác sĩ cũng không thể chữa khỏi. Ông đã chữa khỏi bệnh mù, bệnh què, bệnh ung thư giai đoạn cuối, bệnh lao phổi, bệnh bạch cầu ác tính, bệnh đa xơ cứng, bệnh xơ cứng bì và các bệnh nghiêm trọng khác. Trong một giờ tĩnh lặng, người đàn ông này đã phải đối mặt với nỗi đau khổ của cuộc đời mình. Ông giải thích: “Tôi có thể giúp mọi người. Chỉ có bản thân tôi không thể được giúp đỡ trong cõi vĩnh hằng.” Người chữa bệnh bằng phép thuật này đã hiến máu cho quỷ dữ khi còn trẻ. Từ đó, ông sở hữu khả năng chữa bệnh bằng phép thuật này.
Ngoài ra, sức mạnh ma thuật cũng có thể được phát triển thông qua thí nghiệm huyền bí.
V 13 Một công nhân nhà máy người Thụy Sĩ cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình. Khi liên tục nghe nói rằng những người hành nghề huyền bí và những người theo phương pháp từ trường đang kiếm được rất nhiều tiền, ông đã mua sách về ma thuật từ một nhà xuất bản chuyên về huyền bí. Ông đã học những câu thần chú ma thuật, trải qua các nghi lễ của quỷ dữ và bắt đầu các thí nghiệm chữa bệnh. Khả năng chữa lành bằng phép thuật của ông ấy tăng lên nhanh chóng, và cuối cùng thu nhập của ông tăng gấp nhiều lần so với mức lương trước đây.
Ví dụ sau đây kết hợp cả ba yếu tố: di truyền, đơn thuốc và thí nghiệm bí truyền.
V 14 Một phụ nữ trẻ kể cho tôi nghe câu chuyện về tổ tiên của cô ấy. Bà cố đã hiến máu của mình cho quỷ dữ. Bà thực hành ma thuật đen và chữa bệnh cho người và động vật bằng ma thuật đen của mình. Trên giường bệnh, giống như thường lệ của những người sử dụng phép thuật, bà đã trải qua một cuộc đấu tranh khủng khiếp. Người con gái, tức là bà của người tường thuật câu chuyện lại cho tôi, đã nhận lấy đi khả năng ma thuật của người mẹ đang hấp hối. Bà cũng tiếp quản những cuốn sách ma thuật. Sau cái chết đau đớn của bà cố, bà đã hiện ra với người thân như một bóng ma. Sau đó, bà cố tiếp tục thực hiện phép thuật. Bà nói về bệnh tật vào những đêm trăng tròn và cũng dùng con lắc bằng chìa khóa và Kinh thánh. Bà cũng là một tác nhân cầm máu thành công. Khi bà cố bắt đầu đọc Kinh Thánh, bà bắt đầu trải qua những tấn công nghiêm trọng. Khi lớn lên, bà bắt đầu nhìn thấy những bóng đen trong căn hộ của mình. Khi hấp hối, bà cũng chịu nhiều tấn công lớn. Sau khi chết, bà cũng xuất hiện trong ngôi nhà như một bóng ma. Mẹ của người kể lại chuyện này sau đó đã tiếp quản công việc nghiên cứu và thực hành phép thuật. Bà cũng trở thành một người chữa bệnh nổi tiếng. Bà cũng chịu chung số phận như những người tiền nhiệm của mình. Bây giờ, với tư cách là mắt xích thứ tư trong dòng dõi khủng khiếp này, giờ đến lượt người kể lại câu chuyện này cho tôi. Khi còn nhỏ, cô đã được chính mẹ mình nói thần chú. Ngay sau được yểm thần chú, cô trở nên thấu thị và nhìn thấy những bóng đen trong nhà. Anh trai và em gái của bà bị trầm cảm. Bản thân bà cũng mắc phải chứng rối loạn tâm thần và thần kinh nghiêm trọng, khiến bà phải đến với công tác chăm sóc tư vấn.
Hình thức xuất hiện thứ tư của sức mạnh ma thuật là sự truyền tải huyền bí.
V 15 Một thanh niên đã kể với tôi trong lúc chăm sóc mục vụ rằng có ba pháp sư da đen đã đặt tay lên đầu anh ta trong khi lẩm bẩm những câu thần chú. Sau đó, ông sở hữu sức mạnh ma thuật khiến ngay cả bác sĩ gia đình của ông cũng phải kinh ngạc. Bác sĩ đã thử nghiệm và phải xác nhận khả năng chữa bệnh ma thuật của ông. – Việc đặt tay ma thuật này đối ngược lại cũng giống như việc đặt tay trong Kinh Thánh.
V 16 Một chàng trai trẻ quan sát một người đang tìm nước bằng con lắc. Người dùng con lắc khuyến khích anh ta thử xem. Nhưng con lắc không dao động trong tay anh ta. Sau đó người dùng con lắc nắm lấy tay chàng trai trẻ. Đột nhiên con lắc cũng chuyển động theo hướng có lợi cho anh ta. Sau đó, khi anh lặp lại quá trình này mà không cần người dùng phép thuật con lắc chạm vào thì nó lại hoạt động trở lại. Từ khi con lắc chạm vào người, chàng trai trẻ này giờ đây có khả năng tìm kiếm nước bằng con lắc hoặc bằng thanh que. Tuy nhiên, có điều gì đó đã thay đổi trong đời sống đức tin của anh. Trước đây, anh luôn trung tín cầu nguyện và siêng năng đọc Kinh Thánh. Sau được khi chuyển giao khả năng con lắc, tình yêu dành cho Lời Chúa và sự cầu nguyện đã giảm sút.
- Các Hình Thức Của Phép Thuật
Nhiều giai đoạn ảnh hưởng ban đầu khác nhau cho thấy có sự xuất hiện của phép thuật. Trước hết, chúng ta hãy đề cập đến thôi miên tội phạm.
V 17 Một cô gái đã báo cáo trong một buổi tư vấn mục vụ rằng bác sĩ mà cô đã tham vấn đã thôi miên cô. Bác sĩ đã quyến rũ cô bằng phương pháp thôi miên trong phòng khám. Ông ta cũng đã làm điều này với người bạn của người tường thuật. Sau này người ta mới biết ông ta cũng làm như vậy với nhiều cô gái khác. Khi câu chuyện được lan truyền, vị bác sĩ đó đã rời khỏi thành phố và định cư ở nơi khác. Cô gái cho biết sau sự việc này, cô không thể đọc được Lời Chúa trong nhiều năm. Bà cảm thấy có sự kháng cự mạnh mẽ với mọi điều thiêng liêng và luôn có những suy nghĩ bẩn thỉu khi cầu nguyện.
V 18 Một bác sĩ bệnh viện đã lạm dụng phụ nữ và trẻ em gái trong khi thôi miên. Ông cũng đã từng bị cô y tá trưởng bắt quả tang. Để che giấu tội ác của mình, ông ta đã hỏi bệnh nhân về quan hệ tình dục trong hôn nhân hoặc ngoài hôn nhân trong quá trình ghi chép bệnh sử (anamnesis, lập hồ sơ bệnh án của bệnh nhân) và nhập câu trả lời vào bệnh sử của bệnh nhân. Ông ta muốn dùng nó để che đậy bản thân nếu có bất kỳ sự cố nào bị đổ lỗi cho ông ta. Một người hầu gái ngây thơ đã đính hôn với một chàng trai trẻ ngoan đạo đã mang thai tại bệnh viện này. Sau đó, cô bị chồng sắp cưới bỏ rơi. Theo thông tin trong lời thú tội của cô gái, cô gái chưa từng quan hệ tình dục trước hôn nhân. Cô đã bị vị bác sĩ này lạm dụng tình dục bằng phương pháp thôi miên. Cuối cùng, y tá trưởng và y tá khoa đã tố cáo bác sĩ kia. Kết quả là hai y tá này đã bị bác sĩ trưởng sa thải. còn vị bác sĩ kia thì ở lại. Những chị em khác cũng có tài liệu buộc tội bác sĩ này, im lặng kể từ khi hai chị em bị sa thải. Bản thân tôi đã được một chị chứng kiến những câu chuyện ô uế này kể lại. Sau một vài năm, khi mặt đất dưới chân vị bác sĩ trở nên quá nóng, ông đã chuồn ra nước ngoài. Các nhà khoa học nghiên cứu về thôi miên cho rằng không thể ép buộc một người làm bất cứ điều gì trong khi thôi miên mà họ không thể làm được khi tỉnh táo. Ngoài ra còn có ý kiến cho rằng tội phạm trong điều kiện thôi miên là không thể xảy ra. Trước hết, cần lưu ý rằng không phải tất cả các nhà khoa học đều có chung niềm tin này. Trong công tác mục vụ, tôi cũng gặp nhiều trường hợp phạm tội khi đang bị thôi miên. Theo quan điểm Kinh thánh, cũng dễ hiểu khi một cô gái chưa từng bị xâm hại có thể bị lạm dụng khi bị thôi miên. Chúa Giêsu nói: “Từ lòng người phát xuất những ý định xấu xa.” Ngay cả trong người có đạo đức tốt nhất, những điều xấu xa vẫn tiềm ẩn. Ở trạng thái bình thường, mọi bản năng đều được kiểm soát và kìm nén bởi siêu ý thức (Oberbewußtsein, superconscious), được hình thành bởi tính cách, cách nuôi dạy và thái độ tôn giáo. Hơn nữa, các chuyên gia không tính đến việc, ngoài thôi miên thông thường còn có thôi miên ma thuật, có tác dụng lớn hơn nhiều so với thôi miên thông thường. Thôi miên ma thuật thường được nhận biết bởi thực tế là bệnh nhân không còn có thể tin tưởng hoặc cầu nguyện nữa sau đó. Sau đây là một số ví dụ về thôi miên ma thuật.
V 19 Một cô gái sùng đạo đến gặp bác sĩ tâm thần. Ông bác sĩ tâm thần không chỉ sử dụng phương pháp thôi miên thông thường mà còn đặc biệt sử dụng phương pháp thôi miên ma thuật. Thỉnh thoảng tôi gặp những bác sĩ như vậy ở những nơi có nhiều người hành nghề ma thuật. Trong quá trình điều trị, bác sĩ đã giải thích khi trả lời câu hỏi của cô gái có đức tin rằng ông không có món quà này từ Chúa. Ông ta cũng thú nhận với người hỏi rằng ông ta muốn tiến hành một thí nghiệm gợi ý (suggestive experiment) với cô. Sau khi điều trị, cô gái không còn có đức tin hay cầu nguyện nữa. Cô bị dày vò bởi những nghi ngờ và thử thách nghiêm trọng đối với đức tin của mình. – Một ví dụ rất bất thường như sau.
V 20 Một vị mục sư thích thú với phép thuật vào thời gian rảnh rỗi. Ông đã thử nghiệm ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Ông học cách bói bài, dùng con lắc, niệm chú và thôi miên ma thuật. Vì thiếu đối tượng thử nghiệm phù hợp nên ông đã tiến hành thí nghiệm trên vợ mình. Khi khả năng phép thuật của vị mục sư và vợ ông tăng lên, tình yêu của họ dành cho Lời Chúa và cầu nguyện lại giảm sút. Sự miễn cưỡng này đã leo thang thành thái độ phòng thủ mạnh mẽ. Liên quan đến những thí nghiệm ma thuật này, các rối loạn tâm thần cũng phát triển. Vợ của mục sư đã rất buồn bã đến nỗi bà mắc chứng rối loạn lo âu nghiêm trọng. Bà ấy liên tục phải khóa cửa phòng mình.
V 21 Một doanh nhân có khả năng phép thuật là thôi miên hoặc sử dụng phép thuật để tác động đến khách hàng của mình để họ chấp nhận mọi lời đề nghị của ông ta. Ông ta hoàn toàn ghét những điều thiêng liêng.
V 22 Một người phụ nữ được một người xoa bóp thôi miên để chữa bệnh. Trước khi điều trị bằng thôi miên, bà là người đọc Kinh thánh, cầu nguyện và tham dự các buổi lễ nhà thờ. Sau khi điều trị, khi cố gắng cầu nguyện, bà bị buộc cứ phải nói phạm thượng và nguyền rủa danh Chúa. Bà không còn muốn biết bất cứ điều gì về những điều thiêng liêng nữa và tỏ ra từ chối một cách kỳ lạ mọi thứ liên quan đến điều thuộc linh. Kết quả của phương pháp điều trị này cho thấy người mát-xa này đã sử dụng thôi miên ma thuật.
Nhìn chung, các bác sĩ của chúng ta không hiểu gì về thôi miên dựa trên phép thuật vì hình thức này thuộc về các hoạt động huyền bí. Trong khi thôi miên thông thường do chuyên gia y tế thực hiện có thể vô hại thì sự kết hợp giữa thôi miên với phép thuật luôn nguy hiểm và gây gánh nặng căng thẳng cho bệnh nhân.
Một tiền thân khác của phép thuật là sự gợi ý tinh thần (mental suggestion). Thuật ngữ này ám chỉ sự truyền tải sức mạnh tinh thần hoặc tâm linh từ xa.
V 23 Một nhà tâm lý học trẻ có ý định trở thành giáo sư. Chuyên môn của ông là thôi miên, không phải thôi miên thông thường, mà là gây ảnh hưởng gợi ý từ xa. Ông đang tìm kiếm một đối tượng thử nghiệm nhạy cảm cho thí nghiệm của mình. Ông nhận thấy điều đó ở cô thư ký của ông chủ mình, một người bị suy nhược thần kinh và dễ bị ảnh hưởng. Ông cố gắng đưa cô vào giấc ngủ mà không cần hỏi ý kiến cô. Ông ta ngồi cách đó 3 m trong cùng phòng hoặc thậm chí ở phòng bên cạnh và tập trung vào cô gái. Đột nhiên cánh tay của cô thư ký trở nên yếu ớt. Một cảm giác mệt mỏi vô cùng xâm chiếm lấy cô. Cô cố gắng hết sức chống lại để không ngủ thiếp đi. Những nỗ lực này kéo dài trong một thời gian dài, luôn luôn gặp phải sự phản kháng của cô gái. Trong suốt thời gian thôi miên này, cô gái dần dần bắt đầu phát triển các rối loạn tâm thần. Thư ký đã đến gặp bác sĩ tâm thần để tham khảo ý kiến. Khi nghe về những nỗ lực ám thị (suggestive), ông giải thích với cô: “Điều này không tốt cho cô đâu”. Hơn nữa, những nỗ lực thôi miên của nhà tâm lý học trẻ tuổi này đều được bác sĩ tâm thần này biết đến. Nhà tâm lý học đã tiến hành những thí nghiệm này với cô trong một thời gian dài. Từ đó, cô gái không còn khả năng làm việc bình thường và liên tục gặp phải những triệu chứng tê liệt kỳ lạ.
V 24 Một phụ nữ Công giáo thường đến xưng tội với một linh mục. Cuối cùng, cô trở nên phụ thuộc vào ông về mặt tình cảm và gợi ý. Mỗi lần ông dâng lễ, bà lại ngã xuống đất và tự làm mình bị thương. Lần nào bà ấy cũng bị đánh vào mặt. Các cuộc tấn công xảy ra ngay cả khi bà cách vị linh mục 30 km và không biết khi nào ông đang cử hành thánh lễ. Sự phụ thuộc kỳ lạ này là gánh nặng không thể chịu đựng được đối với người phụ nữ. Trong cơn đau khổ, bà bắt đầu cầu nguyện một cách tha thiết. Vì không biết phải làm gì nên bà đã đến gặp một truyền đạo Tin Lành để xin được chăm sóc mục vụ. Nhờ đức tin, bà đã tìm được con đường dẫn đến mối quan hệ cá nhân với Chúa Giê-xu. Từ thời điểm đó, những cuộc tấn công kỳ lạ đã dừng lại. Sau đó, người phụ nữ này rời khỏi Giáo hội Công giáo.
V 25 Một người thợ thủ công đã thực hành ma thuật đen trong nhiều năm. Ông đặc biệt quan tâm đến các hoạt động ma thuật có thể giúp ông gây ảnh hưởng đến mọi người. Ông cũng là thành viên của một nhóm ma thuật chuyên thực hiện những thí nghiệm kỳ lạ. Vào thời gian rảnh rỗi, ông ấy tự mình thử sức với những cuộc phiêu lưu tà thuật này. Nạn nhân đầu tiên của hắn là một cô gái nhạy cảm, người mà hắn đã kiểm soát đến mức cô ấy đã hy sinh cho hắn đủ mọi thứ, cả về tài chính lẫn tình dục. Sau khởi đầu thành công với tư cách là một phù thủy đen, hắn tìm kiếm thêm nhiều nạn nhân khác. Thí nghiệm của hắn đã thành công. Cuối cùng, hắn đã tìm được một cô gái thường xuyên trả cho hắn toàn bộ tiền lương hàng tháng. Thế là hắn ta đưa cô gái này về nhà mình. Cô sống với hắn ta một thời gian cho đến khi bố mẹ cô có hành động chống lại người đàn ông này và báo với cảnh sát.
Giai đoạn sơ bộ thứ ba của phép thuật là từ tính chữa bệnh dựa trên phép thuật. Giống như thôi miên và gợi ý (ám thị), từ tính chữa bệnh tự nhiên cũng có thể được tăng cường một cách bí thuật. Một ví dụ tương tự đã được báo cáo trong V 22.
Đầu tiên, chúng ta hãy xem xét một ví dụ của Tiến sĩ Trampler. Vị luật sư này là học trò của Gröning, sau đó đã bất hòa với người thầy của mình. Trong công tác mục vụ, tôi có thể thấy từ nhiều ví dụ rằng năng lực chữa lành của ông Trampler không tốt mà còn gây gánh nặng cho bệnh nhân. Hai ví dụ sau sẽ minh họa điều này.
V 26 Một người phụ nữ đến Munich gặp bác sĩ Trampler. Ông đã chữa trị thành công chứng đau lưng của bà. Trong quá trình tham vấn, bà phải giơ mười ngón tay lên như một chiếc ăng-ten để thu các năng lực vũ trụ. Sau khi trở về, bà đã được chữa lành về mặt thể chất, nhưng từ ngày đó trở đi bà cảm thấy đức tin của mình bị hạn chế. Bà không thể cầu nguyện được nữa và cảm thấy có một bức tường không thể xuyên thủng giữa bà và Đức Chúa Trời.
V 27 Một phụ nữ có đức tin đang được tôi chăm sóc đã đến gặp Tiến sĩ Trampler. Cô ngồi cầu nguyện trong văn phòng của ông. Tất cả bệnh nhân đều được điều trị theo trình tự. Cuối cùng, Tiến sĩ Trampler đứng trước cô. Vì cảm thấy bất ổn nên cô cầu nguyện càng tha thiết hơn. Sau đó Tiến sĩ Trampler nói: “Tôi không thể làm gì được cho cô.”
Vì những người chữa bệnh này thường ngụy trang và tô điểm cho hoạt động của mình bằng những từ ngữ tôn giáo nên bản chất đen tối trong sức mạnh của họ thường không được nhận ra. Ở Baden, tôi gặp một bác sĩ y học tự nhiên đã trải qua sự cải đạo rõ ràng theo Chúa Giê-xu. Khi được hỏi về khả năng chữa bệnh của mình, ông trả lời: “Khả năng chữa bệnh tự nhiên của ông chỉ đủ cho khoảng hai bệnh nhân mỗi ngày. Sau đó, năng lượng được sử dụng hết và phải được tích lũy hoặc sạc lại. Bất kỳ ai điều trị cho hơn hai bệnh nhân mỗi ngày sẽ không đạt được kết quả gì hoặc sẽ phải liên lạc với nguồn bên dưới.” Ý của ông là những người hành nghề chữa bệnh thay thế này sẽ bổ sung nguồn từ tính chữa bệnh đã cạn kiệt theo cách huyền bí, bởi vì không một người hành nghề chữa bệnh thay thế nào có thể sống với hai hoặc ba bệnh nhân. Một ví dụ khác thường được sử dụng cho cách ngụy trang thường được thực hiện và gây nhầm lẫn này.
V 28 Một người bạn giáo viên tôn giáo của tôi đã được một bác sĩ chữa trị bằng từ trường. Người chữa bệnh bằng từ trường được coi là một người theo đạo Chúa. Ông tham dự các buổi lễ nhà thờ tại giáo đoàn của mình. Để chắc chắn, giáo viên đã hỏi nhà từ trường: “Ông không có dùng ma lực chứ? ” Người chữa bệnh tự nhiên đáp: “Ma lực là tốt. Quỷ dữ đang giúp chúng ta.” Sau đó, vị giáo viên từ bỏ việc chữa bệnh. Sau nhiều giai đoạn sơ bộ khác nhau, các hình thức phép thuật chính phải được trình bày. Trong cuốn sách “Văn hóa và Y học”, Giáo sư Diepgen phân biệt ba hình thức ma thuật: Ma thuật đen với sự trợ giúp của các thế lực ma quỷ, ma thuật trắng, được cho là có sự trợ giúp của thần thánh, và ma thuật trung tính, được cho là ứng dụng của các thế lực tự nhiên trung tính. Sự phân biệt của Diepgen là đúng, nhưng định nghĩa thì không. Chăm sóc mục vụ đưa ra một bức tranh hoàn toàn khác ở điểm thứ hai và thứ bảy.
Đầu tiên là một số ví dụ về ma thuật đen.
V 29 Một mục sư đã báo cáo với tôi rằng toàn bộ giáo đoàn của ông đều bị nhiễm những thứ huyền bí. Để lấy ví dụ, ông đã trích dẫn trường hợp chữa bệnh bí thuật của một cô gái 20 tuổi. Do mắc bệnh bại liệt nên chân của bé gái bị ngắn. Cô đã nằm viện một thời gian dài và được xuất viện vì bệnh không thể chữa khỏi. Cả cô gái và người mẹ cô đều rất chán nản. Cuối cùng, họ tìm đến sự giúp đỡ của một người đàn ông chuyên thực hành ma thuật đen. Nhà phép thuật này đã yêu cầu đặt cọc 500 DM để mua rễ cây mandrake. Bệnh nhân phải điều trị loại rễ giống người này khi còn là trẻ sơ sinh theo hướng dẫn của người đàn ông. Mọi việc chăm sóc như tắm rửa, cho ăn và cho trẻ ngủ đều phải được thực hiện theo đúng quy tắc chăm sóc trẻ sơ sinh. Sau giai đoạn điều trị đầu tiên này, cô gái được nhà phép thuật hướng dẫn cầu nguyện những bài Thi thiên báo thù, sao chép những bài Thi thiên đó, đặt chúng dưới gối và ngủ cùng chúng. Ở giai đoạn điều trị thứ ba, cô gái phải đặt hai con dao dưới gối và đóng hai con dao vào tường đầu giường. Trong quá trình điều trị kỳ lạ này, cô gái nhận thấy chân ngắn của mình đã trở nên dài hơn. Vì bệnh nhân đã trải qua những rối loạn tâm lý nghiêm trọng sau khi chân ngắn lành lại, nên cô đã đến gặp vị Mục sư địa phương, ông không biết phải làm gì về trường hợp của cô. Cô gái không thể cầu nguyện được nữa. Mỗi khi cô cố gắng chắp tay lại, hai tay lại bị kéo rời ra. Từ lúc đó, cô cảm thấy vô cùng sợ hãi sự trả thù của gã đàn ông độc ác kia. Nhưng các rối loạn tâm thần đã thuyên giảm sau khi nhận được rễ cây mandrake và bùa hộ mệnh. Cái chân vốn đã dài ra bình thường trong quá trình điều trị bằng phép thuật, lại ngắn lại.
V 30 Trong một buổi truyền giáo ở Toggenburg, một người nông dân đã đến nói chuyện và kể cho tôi nghe về hậu quả đáng tiếc của một lần đọc bùa chú về ma thuật đen. Con trai ông bị liệt cột sống. Vì bác sĩ được gọi đến quá muộn nên bệnh nhân vẫn bị liệt. Vì người nông dân quyết tâm có một người thừa kế khỏe mạnh cho trang trại nên ông đã làm mọi thứ có thể. Cuối cùng, ông tìm đến pháp sư khét tiếng Hugentobler ở Peterzell, người đã chữa lành cho cậu bé bằng ma thuật đen, khiến chứng tê liệt biến mất hoàn toàn. Mọi việc diễn ra tốt đẹp trong vài năm. Vào tuổi 16, người cha phát hiện con trai mình trong chuồng ngựa với động mạch cảnh bị cắt. Tai nạn này xảy ra một cách bất ngờ. Trong gia đình không có mâu thuẫn gì. Cũng không có câu chuyện với cô gái nào cả. Người cha tìm thấy bùa hộ mệnh của Hugentobler trên người đứa con trai bị thương nặng của mình. Ông ta mở chiếc túi da và lấy ra một tờ giấy có dòng chữ: “Linh hồn này thuộc về quỷ dữ”. Đây là bằng chứng cho thấy Hugentobler đã sử dụng ma thuật đen trong trường hợp này.
Thậm chí còn phổ biến hơn cả ma thuật đen là cái gọi là ma thuật trắng. Trong nhiều cộng đồng Cơ đốc giáo, việc này được thực hiện như một việc làm đạo đức, mà không có người nào nghi ngờ về bản chất ma quỷ của nó. Ma thuật trắng thực hiện lời của Phao-lô trong 2 Cô-rinh-tô. 11, 14: Chính ma quỷ cũng cải trang thành thiên thần sáng láng. Ma thuật trắng là ma thuật đen ngụy trang dưới dạng lòng mộ đạo. Sau đây là một số ví dụ.
V 31 Một nhà truyền giáo trong cộng đồng Giu-đa ở Bắc Phi, tên là Samuel, đã kể lại một phong tục ma thuật của người Giu-đa ở Bắc Phi. Khi một đứa trẻ trong gia đình Giu-đa bị ốm, cha mẹ sẽ lấy một chiếc khăn, thắt nút khăn lại rồi nói: “Nhân danh Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Jacob, hãy được giải thoát khỏi bệnh tật của ngươi.” Sau đó, họ mở nút thắt và từ đó trở đi, những đứa trẻ trở nên khỏe mạnh nhờ những câu thần chú bí thuật. Đây là một sự tương phản với ma thuật đen.
V 32 Một người phụ nữ ở Bukovina kể rằng họ hàng của bà đã sử dụng phép thuật chữa bệnh từ ma thuật trắng để chữa mọi bệnh tật cho người và động vật. Ba cái tên cao nhất (Chúa ba ngôi) cũng được nhắc đến trong lúc thực hiện phép chữa bệnh. Người ta thấy rằng các căn bệnh đã biến mất sau những lần đọc thần chú này. Mặc dù tổ tiên của họ đều là người sùng đạo, nhưng các phép thuật chữa bệnh khác nhau vẫn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người thuật lại và con gái của cô mắc chứng rối loạn thần kinh. Đây chính là lý do cần có sự tư vấn mục vụ. Một nhà thuyết giáo đã cầu nguyện cùng cô. Sau đó, vấn đề của cô đã được cải thiện. Nó cũng thấm nhuần vào sự chắc chắn của đức tin.
V 33 Trong một trang trại, chủ nhà đã treo cổ tự tử. Theo quan niệm phổ biến trong làng, những người tự tử phải đi bộ quanh nơi họ phạm tội. Do đó, người thân được khuyên nên quét toàn bộ ngôi nhà bằng ba cái tên cao nhất (Chúa ba ngôi). Khi đó, vụ tự tử sẽ không còn ám ảnh ngôi nhà nữa. Trên thực tế, những người thân đã làm theo lời khuyên kỳ lạ này. Từ lúc này trở đi, vợ người nông dân luôn cảm thấy bồn chồn lạ lùng.
V 34 Một bé gái 15 tuổi bị bệnh về mắt. Nó đã nằm ở phòng khám mắt một thời gian dài, nhưng mặc dù đã được điều trị y tế nhưng vẫn không hồi phục. Vì sự giúp đỡ của các bác sĩ đã không hiệu quả, nó đã tìm đến sự giúp đỡ tà thuật của một thầy phù thủy. Người đàn ông dùng phép thuật trắng để yểm bùa cô gái. Trong phòng làm việc của ông có cuốn Kinh Thánh. Thỉnh thoảng ông tham dự các buổi lễ nhà thờ ở nhà thờ của mình. Sau khi đọc thần chú, vấn đề về mắt của bé gái đã biến mất trong vòng 24 giờ. Từ thời điểm chữa lành này trở đi, cô gái cảm thấy vô cùng bồn chồn. Nó tìm kiếm Chúa Giê-xu trong lời cầu nguyện nhưng không tìm được sự bình an. Khi cô đến gặp bác sĩ chuyên khoa trước đó sau lần chữa bệnh kỳ lạ này, vị bác sĩ chuyên khoa lắc đầu kinh ngạc và hỏi cô gái về quá trình chữa bệnh này diễn ra như thế nào.
V 35 Một người phụ nữ đã dùng phép thuật để ếm bùa hai cô con gái của mình khi chúng còn nhỏ. Người niệm chú đã dùng ba lời kinh Lạy Cha trong quá trình chữa bệnh bằng phép thuật. Khi những đứa trẻ lớn lên, người mẹ liên tục tìm kiếm lời khuyên từ các nhà chiêm tinh, thầy bói và thầy xem chỉ tay. Hơn nữa, cô đã nhận được tạp chí hàng tháng của một bác sĩ huyền bí trong nhiều năm. Người con gái lớn nhất được đưa vào bệnh viện tâm thần khi mới 27 tuổi và được coi là không thể chữa khỏi. Cả gia đình đều phản đối mạnh mẽ Chúa Giê-xu và mọi điều thiêng liêng. Bây giờ, khi sự đau khổ về mặt cảm xúc đã lên đến đỉnh điểm, bà đã tìm đến Mục sư để tư vấn.
V 36 Một phụ nữ trong cộng đồng có nhiều công thức ma thuật trắng khác nhau. Để chữa bệnh thối miệng, bà kê đơn nước Phục sinh, phải uống dưới ba cái tên cao nhất (Chúa ba ngôi).
V 37 Một người phụ nữ bị bệnh nặng đang nằm viện với bệnh zona và chân hở. Tình trạng bệnh trở nên tồi tệ hơn đến mức bác sĩ cao cấp phải yêu cầu theo dõi bệnh nhân một đêm. Người ta dự đoán bệnh nhân sẽ tử vong. Y tá trực đêm ngồi cạnh giường người phụ nữ hấp hối. Người phụ nữ bệnh tật liên tục thì thầm với y tá: “Chị ơi, chị có thể giúp em.” Người chị em sợ rằng mình phải cầu nguyện với người phụ nữ bị bệnh và nói với bà một lời của Chúa, nhưng người phụ nữ bị bệnh không muốn bất kỳ sự khích lệ nào từ Kinh thánh. Người chị em cũng không thể làm được điều đó. Cô y tá cảm thấy không thoải mái khi ở cạnh những người bệnh này và thậm chí không thể thốt ra một lời cầu nguyện nào cho chính mình. Khi người phụ nữ bệnh nặng liên tục lặp lại câu “Y tá ơi, cô có thể giúp tôi không”, cuối cùng cô đã hỏi: “Tôi có thể giúp gì cho cô? ” Người phụ nữ bệnh tật lúc đó trở nên rất sống động và giải thích: “Tôi sẽ phơi bày thân thể mình, cô hãy đặt tay lên những chỗ đau, làm dấu ba cây thánh giá trên đó, xưng danh Chúa Ba Ngôi và đọc một câu ngắn mà tôi sẽ đọc cho cô nghe.” Cô y tá trực đêm càng trở nên sợ hãi hơn. Khi một bác sĩ đang đi dọc hành lang vào lúc đó, cô ấy hỏi bác sĩ liệu cô ấy có nên thực hiện mong muốn của bệnh nhân không. Bác sĩ nói với cô ấy và trả lời: “Cô cứ làm như vậy đi. Có lẽ điều đó sẽ giúp ích cho bệnh nhân. Xét về mặt nhân văn và y khoa, dù sao thì cũng không thể mong đợi gì hơn ở cô ấy.” Y tá quay lại phòng chờ và ngay lập tức được người phụ nữ bệnh nặng thúc giục quay lại quá trình đọc thần chú. Y tá làm dấu ba cây thánh giá trên cơ thể bệnh nhân, gọi ba cái tên cao quý nhất (Chúa ba ngôi) và lẩm bẩm lời cầu nguyện thần chú. Sau đó, bệnh nhân lập tức bình tĩnh lại. Nhưng người chị em lại vô cùng sợ hãi và lo lắng. Trong vài ngày tiếp theo, tất cả các bác sĩ đều rất ngạc nhiên. Đôi chân mở ra khép lại ngay lập tức, mọi triệu chứng của bệnh đều biến mất và hoàn toàn khỏi chỉ trong vòng năm ngày. Các bác sĩ không thể giải thích được diễn biến đáng ngạc nhiên này. Vị bác sĩ đã đề nghị thảo luận giữ kín chuyện này cho riêng mình. Kể từ cuộc đọc thần chú này – sáu năm trước – người chị em vẫn chưa tìm lại được sự bình yên. Cô ấy không thể cầu nguyện. Cô ta ghê tởm lời Chúa và những điều thiêng liêng. Cô ấy thường cảm thấy choáng váng ở đầu, khó tập trung và bị bệnh tâm thần. Tình huống này khiến cô ấy phải tìm đến tôi để nói chuyện. Bản thân cô cho rằng chứng rối loạn tâm thần nghiêm trọng của mình là do cuộc đọc thần chú kỳ lạ đó. Không hề hay biết rằng, cô đã giúp bệnh nhân bằng phép thuật trắng.
Trong tất cả các ví dụ về ma thuật trắng này, các biểu tượng của cơ đốc giáo và số ba đều đóng vai trò nhất định. Những cái đó được đọc bùa chú trong ba danh xưng cao nhất, sử dụng ba kinh Lạy Cha hoặc ba câu Kinh Thánh. Sử dụng ba biểu tượng thánh giá hoặc ba ngọn nến đã được thánh hiến. Ma thuật trắng là sự bóp méo tinh vi lời cầu nguyện đức tin trong Kinh thánh thông qua việc đặt tay. Đó là lý do tại sao nhiều người tin vào loại ma thuật tôn giáo này. Sự khác biệt giữa phép thuật trắng và nghi lễ đặt tay theo Kinh thánh thường rất khó phân biệt, ngay cả khi biết được những điểm khác biệt cơ bản.
Trong lời cầu nguyện đức tin theo Kinh Thánh, người cầu nguyện tuân theo ý muốn của Chúa. Ma thuật trắng có mục đích là để ép buộc sự giúp đỡ của Chúa. Trong lời cầu nguyện theo Kinh Thánh có sự giao tiếp nội tâm giữa người cầu nguyện và Chúa của mình. Trong ma thuật trắng, các yếu tố Cơ đốc giáo chỉ được sử dụng như phương tiện kỹ thuật của phép thuật. Lời cầu nguyện trong Kinh Thánh được thực hiện dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Linh, Đấng giúp đỡ chúng ta trong sự yếu đuối của mình. Nhà ma thuật trắng đang được truyền cảm hứng từ bên dưới. Người cầu nguyện theo Kinh Thánh sẽ được củng cố đức tin sau khi cầu nguyện, ngay cả khi sự giúp đỡ họ cầu xin không được Chúa ban cho theo cách họ mong muốn. người tiến hành pháp sư trắng dù là chủ động hoặc thụ động, sau đó sẽ bị rối loạn nghiêm trọng và tê liệt trong đời sống niềm tin của mình, ngay cả khi sự giúp đỡ bắt buộc đã diễn ra như mong muốn. Thường chỉ sau khi thông qua những tác động của nó, người ta mới nhận ra lời cầu nguyện đó có phải là lời cầu nguyện trong Kinh thánh hay là nó mang tính ma thuật. Các ranh giới có thể thay đổi. Đôi khi người đánh giá phải có khả năng phân định nếu muốn tìm ra cách phân biệt giữa điều gì là thật và điều gì là giả. Phép thuật trắng không đòi hỏi phải được chăm sóc tư vấn. Việc đặt tay theo Kinh Thánh chỉ được thực hiện sau khi được chăm sóc tư vấn đã kỹ lưỡng. Việc thực hiện phép thuật trắng bị gián đoạn nghiêm trọng hoặc không thể thực hiện được do có người đứng cầu nguyện. Việc đặt tay theo Kinh Thánh được hỗ trợ và củng cố bằng một lời cầu nguyện khác. Ma thuật trắng và nghi lễ đặt tay theo Kinh thánh hoàn toàn khác nhau, mặc dù chúng sử dụng những từ có âm thanh tương tự.
Một dạng khác được gọi là ma thuật trung lập. Gần đây, phương pháp này đã được các bác sĩ thuộc trường phái tâm lý học sử dụng. Họ tin rằng họ có thể sử dụng các lực lượng tự nhiên trung tính mà không có bất kỳ hàm ý tích cực hay tiêu cực nào cho mục đích chữa bệnh. Tôi có một số ví dụ rất mơ hồ.
V 38 Một bác sĩ trẻ bị một nắm mụn cóc đã hỏi người đứng đầu một hội thảo tâm lý: “Thưa Giáo sư, làm sao để tôi loại bỏ được mụn cóc? ” Giáo sư trả lời: “Chỉ có một biện pháp hiệu quả duy nhất: niệm chú.” Bác sĩ đã làm theo lời khuyên này. Buổi nhóm đã thành công mỹ mãn. Tôi không được thông báo về bất kỳ tác dụng phụ nào có thể xảy ra. Người đã được giải thoát khỏi mụn cóc vẫn giữ im lặng về điều đó.
V 39 Một bác sĩ tâm thần trẻ tuổi hỏi trưởng khoa một phòng khám tâm thần: “Thưa giáo sư, làm sao tôi có thể loại bỏ được mụn cóc? ” Vị giáo sư đưa ra lời khuyên sau: “Hãy buộc chặt mụn cóc bằng một sợi chỉ đen. Thắt nút sợi chỉ theo số mụn cóc bạn có và đặt sợi chỉ dưới máng xối trong khi sử dụng niệm chú (spell). Khi đó, bạn sẽ thoát khỏi những thứ xấu xí này.” Ban đầu, bác sĩ nghĩ đó chỉ là một trò đùa. Cuối cùng, ông ấy đã bị thuyết phục để thử. Trái với mong đợi, thí nghiệm đã thành công. Mụn cóc đã biến mất.
Gợi ý này của giáo sư không phải là phép thuật trung tính. Công thức kỳ lạ này nằm trong sách Môi-se 6/7, trong đó chỉ chứa những câu thần chú ma thuật đen hoặc trắng. Cho đến nay, loại ma thuật được cho là trung lập này vẫn chưa thể chứng minh được tính vô hại và trung lập của nó. Sự chăm sóc mục vụ liên tục chỉ ra rằng ma thuật là công trình của ma quỷ, bất kể nó mang lá cờ đen, trắng hay trung lập.
- Các Lĩnh Vực Ứng Dụng Của Phép Thuật
Như đã trình bày về các loại hình ma thuật, mọi thứ mà con người tin rằng có thể tìm thấy trên trời, trên mặt đất và dưới lòng đất đều nằm trong phạm vi của ma thuật. Một phần trong cuộc nổi loạn toàn cầu của Satan là muốn chạm đến Đức Chúa Trời và Đấng Christ, các thiên thần và thần linh, mọi tạo vật trên đất và vật chất. Thật khó có thể diễn tả hết được phạm vi to lớn của phép thuật trong cuốn sách này. Do đó, chỉ có thể chỉ ra từng lĩnh vực chính riêng biệt.
Chữa Lành Và Làm Cho Bị Bệnh. Đã có rất nhiều ví dụ về việc chữa bệnh. Vậy thì chỉ có một điều sau đây.
V 40 Một phụ nữ Công giáo bị bệnh nặng đang nằm viện. Người phụ nữ bị bệnh nặng đã gọi y tá và yêu cầu dịch vụ sau. Bà cho biết con gái bà đã bị quỷ ám ở nhà trong nhiều năm. Con gái bà rất hiếm khi có ý thức. Là một người bệnh nặng, giờ đây bà có cơ hội giúp đỡ cô con gái của mình đang bị hành hạ. Sau đó, bà hỏi y tá và nói: “Bà ơi, trước khi tôi chết, xin chị hãy thông báo cho người thân của tôi. Sau đó, người ta mang đứa con gái bị quỷ ám của tôi đến. Sau đó cả hai chúng tôi đổi áo nhau. Điều này có nghĩa là tôi sẽ mang theo nỗi ám ảnh của con gái tôi về tôi xuống mồ. Điều này sẽ giải thoát cho con gái tôi.” Cô y tá chăm sóc đã không thực hiện được mong muốn của người phụ nữ hấp hối này.
Ngược Lại Của Chữa Lành Là Làm Cho Ai Đó Bị Bệnh.
V 41 Một thanh niên muốn trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Vì thế, người cha đã gửi cậu đến gặp một thầy phù thủy để làm cho cậu bị bệnh. Thí nghiệm này đã thành công. Khi đó, chàng thanh niên không đủ điều kiện để tham gia nghĩa vụ quân sự.
V 42 Một nhà ngoại cảm thú nhận rằng bà thuộc về một nhóm không chỉ giao thiệp với người chết mà còn thực hành ma thuật đen. Chuyên môn của bà ấy là điều trị bệnh tật và bùa chú làm chết người. Họ đã thực hiện một số vụ giết người mà cảnh sát không thể khám phá. Họ cũng bị cáo buộc tấn công một mục sư, khiến người này mắc chứng rối loạn thần kinh và không thể làm việc trong nhiều tháng. Đó chính là nội dung của lời thú nhận này. Tôi không thể xác minh những tuyên bố này. Tất cả những gì tôi biết là vị linh mục đã bị bệnh trong một thời gian dài vào thời điểm diễn ra các thí nghiệm ma thuật của hội này.
V 43 Một cô gái xuất thân từ một gia đình Công giáo nghiêm khắc đã kết hôn với một người đàn ông Tin lành, trái với ý muốn của cha mẹ cô. Người con trai đầu lòng của cuộc hôn nhân này đã mắc bệnh bại liệt. Cha mẹ trách mắng con gái rằng: “Đây là hình phạt cho mối quan hệ của con với một người đàn ông Tin Lành.” Sau đó, cha mẹ theo đạo Công giáo đã thuê một pháp sư chữa bệnh cho đứa cháu trai và hành hạ hoặc làm cho người mẹ bị bệnh. Trên thực tế, quá trình chữa lành của đứa con trai bị bệnh diễn ra nhanh chóng đến ngạc nhiên. Tuy nhiên, người mẹ đã bị bệnh. Người phụ nữ được đưa vào bệnh viện với những chứng bệnh rất lạ, chẳng hạn như liệt, trầm cảm, đau đầu dữ dội, v.v. Các bác sĩ không thể chẩn đoán rõ ràng về căn bệnh này. Họ thực hiện từng cuộc kiểm tra đặc biệt, lấy dịch não tủy, xác định tỷ lệ trao đổi chất cơ bản, lập điện tâm đồ (ECG), v.v. Cuối cùng, họ gọi một bác sĩ chuyên khoa não. Họ không tìm ra nguyên nhân trong nhiều tuần khám tìm bệnh. Cuối cùng, tình trạng của người phụ nữ đã cải thiện một cách đáng ngạc nhiên. Cô ấy yêu cầu được xuất viện. Các bác sĩ đã đồng ý. Cha mẹ theo đạo Công giáo vô cùng sốc trước diễn biến này và ngay lập tức báo với pháp sư rằng sự truy đuổi của ông đã không còn hiệu quả nữa.
V 44 Một pháp sư đen nói với một cô gái đang bị một quý ông giàu có, đã có vợ theo đuổi: “Tôi sẽ hạ gục gã này về mặt tinh thần đến nỗi gã ta sẽ mất việc”. Không lâu sau, người đàn ông này bắt đầu bị căng thẳng thần kinh. rối loạn. Ông phàn nàn về tiếng động mạnh bên trong và bên ngoài đầu, mắt thì nhấp nháy, suy giảm thị lực và nhận thức.
V 45 Một cô gái đã đến với đức tin nơi Chúa Giê-xu thông qua một chiến dịch truyền giáo. Trong niềm vui ban đầu vì hạnh phúc mới tìm thấy, cô gái đã cố gắng mời những người hàng xóm đến dự các buổi thuyết trình và học Kinh Thánh. Có một người đàn ông sở hữu rất nhiều sách về huyền bí và đã thử nghiệm chúng. Người đàn ông này cảm thấy khó chịu vì lời chứng vui vẻ của cô gái có đức tin. Nhà huyền bí giải thích: “Tôi sẽ làm cô ta phát điên. Tôi sẽ khiến cô ấy không bao giờ đi nhà thờ nữa.” Sau một vài tuần, cô gái ngoan đạo này thực sự bắt đầu gặp phải vấn đề. Cô nhìn thấy ngọn lửa trong phòng và cũng nhận thấy những bóng ma. Trong tình trạng này, cô ấy đến gặp tôi để xin tư vấn mục vụ.
Bùa Yêu Và Bùa Ghét. Ví dụ từ V 43 đến V 45 cũng có thể được coi là bùa chú thù hận. Sau đây chỉ là những ví dụ về bùa yêu.
V 46 Những người nông dân vùng núi cao lùa bò về nhà từ đồng cỏ trên núi vào tháng 9 thường buộc ba loại thảo mộc nhỏ vào dây thừng của con bò đầu đàn. Đây không chỉ là đồ trang sức mà còn mang ý nghĩa mang lại may mắn trong tình yêu.
V 47 Một cô gái ngoại tình với một người đàn ông đã có vợ. Một ngày nọ, người đàn ông này thay đổi nơi cư trú. Trước khi đi, anh giải thích với bạn gái: “Dù chúng ta đã xa nhau nhưng anh vẫn sẽ đến thăm em thường xuyên. Nhưng điều đó không có nghĩa là anh sẽ quay lại đây. Anh chỉ có thể gặp em trong mơ thôi. Em biết đàn ông muốn gì ở phụ nữ. Anh có thể lấy bất cứ thứ gì anh cần bất cứ lúc nào mà không bị ai ngăn cản. Em sẽ không bao giờ có thể làm gì được anh vì bạn không có bằng chứng.” Lúc đầu cô gái không hiểu nhiều về lời giải thích kỳ lạ này. Chỉ một tuần sau khi người bạn trai của cô ra đi, cô đột nhiên cảm thấy sự hiện diện của anh vào ban đêm. Những cuộc viếng thăm này lặp đi lặp lại cho đến khi cô gái cảm thấy những cuộc gặp gỡ kỳ lạ này thật đáng sợ và kinh tởm. Đầu tiên, cô tìm kiếm sự trợ giúp y tế. Đúng như dự đoán, bác sĩ giải thích những cuộc gặp gỡ tâm linh hàng đêm này là ảo giác tình dục ở giai đoạn đầu của bệnh tâm thần phân liệt. Cô gái, người hoàn toàn tỉnh táo, không chấp nhận chẩn đoán của bác sĩ nhưng cho rằng có nhiều nguyên nhân khác đang diễn ra ở đây.
Ma thuật Trừng phạt và Phòng thủ là những hình thức phổ biến nhất của phép thuật.
V 48 Hai người phụ nữ đến từ Bessarabia (Moldova), những người đã thực hành ma thuật đen trong nhiều năm, đã cãi nhau. Cả hai đều sử dụng sức mạnh ma thuật của mình để truy đuổi đối phương. Trong cuộc chiến này, một người phụ nữ đã ngã xuống đất mà không rõ lý do, bị tê liệt và không thể đứng dậy. Bà ấy chửi rủa và lăng mạ đối thủ của mình. Khi bị nhấc khỏi mặt đất, bà hét vào mặt phép thuật gia kia: “Ngươi sẽ không thể sống sót mà ra khỏi ngôi nhà này đâu. Ta sẽ lo liệu việc này.” Sau ba ngày, người phụ nữ bị đau đầu dữ dội và sau tám ngày thì bà qua đời.
V 49 Một đứa trẻ khóc mỗi đêm từ 11 giờ đến 1 giờ sáng. Người mẹ tuyệt vọng đã tìm đến một nhà phép thuật để xin lời khuyên. Cô được yêu cầu đặt dao, nĩa và kéo dưới gối của đứa trẻ thì việc quấy rối sẽ dừng lại. Hơn nữa, lớp phòng thủ ma thuật này có mục đích gây thương tích cho kẻ ác. Người mẹ bối rối đã làm theo lời khuyên này. Khi người hầu phòng đeo băng vào ngày hôm sau, bà tin rằng chính người hầu phòng là nguyên nhân gây ra sự quấy rối vào ban đêm.
V 50 Một người nông dân quan sát thấy sữa của một con bò có màu đỏ như máu. Ông đun nóng sữa đỏ vào khoảng 11 đến 12 giờ đêm, dùng liềm đập vào và lẩm bẩm một câu thần chú. Ngày hôm sau, một người hàng xóm bị thương ở mặt. Bây giờ ông ta cho rằng người phụ nữ này đã bỏ bùa con bò của ông ta.
Trói và Mở được một số pháp sư sử dụng như một môn thể thao, trong khi những người khác sử dụng nó để theo đuổi lợi ích ích kỷ của riêng họ.
V 51 Một người đàn ông trong viện dưỡng lão cơ đốc có khả năng ma thuật trói buộc và cởi trói. Ông có thể bỏ mặc mọi người đứng trên đường đến nỗi họ không thể đi tiếp được nữa. Ông cũng có thể trục xuất trẻ em để chúng không thể nói được nữa hoặc chỉ có thể tiến lên một bước. Người đàn ông này được coi là một tín đồ Cơ đốc giáo sùng đạo.
V 52 Một người chữa bệnh bằng từ trường ở Thụy Sĩ có giấy phép hành nghề chính thức, chữa bệnh cho bệnh nhân bằng các công thức ma thuật trắng. Ông sử dụng ba danh hiệu cao quý nhất (ba ngôi) hoặc ba kinh Lạy Cha. Vì những lời nói mộ đạo này, bệnh nhân coi ông là một người theo tin Chúa. Người chữa bệnh bằng từ trường này có sức mạnh ma thuật. Nếu bệnh nhân không trả tiền đúng cách, anh ta sẽ bị trói buộc. Khi rời đi, bệnh nhân đến được nhà ga, nhưng không thể lên tàu. Các viên chức đường sắt, những người biết về sức mạnh ma thuật của người chữa bệnh bằng từ trường qua nhiều lần quan sát, sau đó nói với bệnh nhân một cách vui vẻ: “Đầu tiên hãy trả tiền cho ông chữa bệnh bằng từ tính đó, sau đó hãy quay lại và lên tàu.”
V 53 Một giáo viên trường học đã tham gia vào ma thuật đen trong nhiều năm. Ông không chỉ thu thập tài liệu về nó mà còn thử nghiệm những thí nghiệm ma thuật. Đối tượng thử nghiệm của ông là những đứa con của ông đang đi học. Ông ta triệu hồi trẻ em trong khi đồng thời niệm chú trói buộc. Đứa trẻ được triệu hồi không thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi cũng không thể nói chuyện. Chỉ đến khi anh ta nói lời giải phóng thì đứa trẻ mới đứng dậy và trả lời được. Ông cũng sử dụng phương pháp trục xuất và thả tự do này như một hình phạt. Sau nhiều năm thực hành trên trẻ em ở trường, ông đã chọn vợ và con gái mình làm đối tượng thử nghiệm bổ sung. Ông ta kiểm soát người thân của mình hoàn toàn đến mức có thể trục xuất họ theo ý muốn. Đôi khi, vợ và con gái ông không thể thốt ra một lời nào trong nhiều giờ, thậm chí nhiều ngày. Người vợ bị suy sụp tinh thần và chết. Người phụ nữ thứ hai chạy ra khỏi nhà sau lần đầu tiên người đàn ông cố trục xuất (trói buộc) cô đi và không bao giờ quay trở lại. Sau đó, người cha đã xâm hại tình dục con gái mình. Cô con gái không có khả năng chống lại cha mình. Khi người cha quay sang người phụ nữ thứ ba, ông đã trục xuất (trói buộc) con gái mình. Bị liệt giọng nói vĩnh viễn. Vì cô con gái cản trở cha mình, ông bị nhiều phụ nữ hấp dẫn, nên chính cha cô đã đưa cô vào viện tâm thần. Các bác sĩ không thể chữa khỏi chứng liệt giọng nói của cô gái. Những người thân của cô gái, những người biết về hoàn cảnh gia đình khủng khiếp của thầy giáo, không được phép đến thăm cô gái bất hạnh trong bệnh viện điên sau lệnh cấm của cha cô.
Bùa chú giết chết gây ra cho động vật và con người thuộc về lĩnh vực ma thuật đen tối nhất. Tôi có nhiều tường thuật truyền giáo khác nhau liên quan đến vấn đề này. Ít người biết rằng những điều như vậy cũng được thực hiện ở châu Âu. Ngay cả khi hiệu quả của phép thuật giết người không thể được chứng minh, những phong tục như vậy vẫn đại diện cho điểm thấp trong nền văn hóa của chúng ta.
V 54 Một chuyên gia về ma thuật đen chuyên về các loại bùa chú khủng bố, bùa chú làm chết người và bùa chú chuồng. Ông đã giết được một con bò trong vòng bốn ngày nhờ vào ma thuật đen. Đây là những gì cháu trai của người đàn ông này đã kể với tôi.
V 55 Một người phụ nữ đã thực hành ma thuật đen trong nhiều năm. Bà ta sở hữu những cuốn sách ma thuật rất nguy hiểm, ví dụ như sách Môi-se thứ 6/7, “Sách nguồn”, “Lá chắn tâm linh” và nhiều tài liệu huyền bí khác. Bà đã thử nghiệm trong lĩnh vực theo dõi ma thuật và bùa chú chết người. Bà ta khoe khoang: “Tôi đã giết chết chồng và con gái mình.” Bà ta truy đuổi kẻ thù bằng bệnh tật. Bà giải thích rằng bà có thể gây ra phát ban, tiêu chảy, các vấn đề về tim, ngứa, đau dạ dày, sưng bụng và nhiều triệu chứng khác cho kẻ thù của bà. Sau khi đẩy cả gia đình mình đến chỗ chết theo cách này, như chính bà đã nói, bà đã trở thành y tá giáo phận với sự giúp đỡ của một mục sư. Người phụ nữ này vẫn tiếp tục thực hành phép thuật của mình cho đến ngày nay. Bà ấy đóng cửa với mọi điều thiêng liêng. Chúa Giêsu gọi họ là con của gái điếm và là kẻ vô lại. Vào những ngày lễ nhà thờ, bà thường nổi cơn thịnh nộ và nói những lời phạm thượng. Trong thời điểm tốt đẹp, bà ấy cảm thấy day dứt và giải thích: “Cuộc sống của tôi bị đảo lộn. Tôi thậm chí còn không muốn làm những điều mà tôi buộc phải làm. Nhưng tôi phải làm điều đó, ma quỷ đang điều khiển tôi. Tôi không thể nghỉ yên được nữa.”
V 56 Một người đàn ông đã có vợ ngoại tình với một cô gái lớn tuổi hơn chưa có chồng. Cô gái này nổi tiếng vì sử dụng ma thuật đen. Một ngày nọ, người đàn ông này cảm thấy mệt mỏi vì mối quan hệ bất chính này. Anh ấy nói với bạn gái rằng anh sẽ không đến gặp cô ấy nữa. Người tình của anh rất buồn về chuyện này và đe dọa: “Anh có vợ và hai đứa con, họ phải tin vào điều đó!” Người đàn ông không để mình bị đe dọa và vẫn kiên định với quyết định của mình. Hai ngày sau khi chia tay, con trai ông bị bệnh, phải nhập viện và qua đời. Đó là một căn bệnh kỳ lạ mà bác sĩ không thể chẩn đoán được. Vài ngày sau, người phụ nữ và cô con gái cũng bị bệnh. Người đàn ông sợ hãi và nhớ lại mối đe dọa từ bà phù thủy mà ông đã ngoại tình. Anh ta chạy đến chỗ cô và cầu xin cô đừng dùng ma thuật đen với anh. Cô đã nhượng bộ và nói: “Được rồi, tôi sẽ không làm thế nữa”. Sau đó, vợ và con gái bà đã nhanh chóng bình phục.
V 57 Trong một chiến dịch truyền giáo, một người đàn ông đến xin tư vấn mục vụ và kể lại trường hợp sau đây ở làng mình. Một chiếc cưa mới của một người hàng xóm bị đánh cắp. Vụ trộm xảy ra giữa ban ngày và đã bị phát hiện. Nạn nhân đã được thông báo ngay về tội ác và tên của tên trộm. Chủ sở hữu chiếc cưa không chỉ báo cáo vụ việc với cảnh sát. Ông đến gặp một người đàn ông đang tiến hành thí nghiệm truy đuổi bằng ma thuật đen. Nạn nhân đã trình bày yêu cầu của mình và trả cho ma thuật gia một khoản tiền khá hậu hĩnh. Nhà huyền bí này hứa sẽ giúp đỡ ngay lập tức và tuyên bố: “Kẻ trộm phải chết!” Nạn nhân đã trở về làng của mình. Ba giờ sau khi tham khảo ý kiến của nhà ma thuật, tên trộm lên cơn đau tim.
- Nghi lễ ma thuật
Ma thuật, dưới mọi hình thức và phong tục, đều mang dấu ấn của tôn giáo ma quỷ. Về mọi mặt, nó là sự mô phỏng (bắt chước) thế giới đức tin trong Kinh thánh.
Phụng vụ ma thuật là sự tương ứng với nghi lễ và hình thức thờ phượng trong Kinh thánh. Một hành động ma thuật thường bao gồm bốn yếu tố: triệu hồi, phép thuật, hành động tượng trưng, sử dụng bùa vật linh thiêng. Lời kêu gọi (triệu hồi) được thực hiện với Chúa Ba Ngôi hoặc với Satan. Ngài quyết định nên sử dụng phép thuật đen hay trắng. Lời kêu gọi (triệu hồi) là lời tương ứng với lời cầu nguyện của chúng ta: “Lạy Cha chúng con” hoặc “Lạy Chúa Jesus Christ”. Sau đó, phép thuật sẽ kích hoạt sức mạnh ma thuật có hiệu lực. Bùa chú ma thuật là từ tương ứng với từ trong Kinh thánh hoặc lời cầu nguyện trong Kinh thánh. Hành động tượng trưng nhấn mạnh câu nói và mô phỏng các hành động tượng trưng trong Kinh thánh, chẳng hạn như việc đặt tay hoặc các hình thức cầu nguyện. Việc sử dụng bùa hộ mệnh, một chất chứa sức mạnh ma thuật, trong thế giới Cơ đốc giáo tương tự như việc sử dụng nước hoặc bánh và rượu.
V 58 Con trai của một người nông dân liên tục bị đau dữ dội ở đầu gối. Theo lời khuyên của một thầy phù thủy, ông đã thực hiện phương pháp chữa bệnh tà thuật sau đây. Ông ra ngoài đồng vào ban đêm khi trăng khuyết. Ông cầu nguyện Chúa Ba Ngôi, đọc một câu thần chú, xức dầu lên đầu gối và thổi những nụ hôn lên mặt trăng. Cơn đau sau đó biến mất.
Ví dụ này bao gồm những nội dung sau: Lời cầu nguyện đến Chúa Ba Ngôi
quyết định hình thức phép thuật, trong trường hợp này là phép thuật trắng. Bùa chú ma thuật thay thế cho lời cầu nguyện. Việc xức dầu là hành động mang tính tượng trưng. Mặt trăng được dùng như một vật thờ cúng. Khi ông ấy giảm cân, cơn đau cũng sẽ giảm theo.
Biểu Tượng Ma Thuật có mục đích hỗ trợ hiệu quả cho phép thuật. Cùng lúc đó, một phép thuật chuyển giao cũng diễn ra ở đây. Bản chất của sự truyền tải huyền bí không thể được trình bày ở đây do không đủ chỗ. Ví dụ có thể minh họa cho vấn đề.
V 59 Giáo sư Frobenius, nhà thám hiểm hang động nổi tiếng, đã báo cáo trong một bài giảng rằng một số bức vẽ trong hang động của người thời kỳ đồ đá có thể được hiểu là phép thuật săn bắn. Một số loài động vật được thể hiện có vết thương. Những quan sát này phù hợp với phép thuật săn bắt của người nguyên thủy ở Châu Phi. Một du khách ở Châu Phi đã kể với chúng tôi rằng các bộ lạc bản địa đôi khi sử dụng phép thuật săn bắn và thực sự đã thành công. Họ vẽ động vật và bắn những câu thần chú vào bức tranh. Cùng ngày, người ta tìm thấy những con vật trong cuộc săn có cùng vết thương như bức vẽ bị bắn. Phép thuật săn bắn nguyên thủy này một lần nữa phù hợp với những quan sát ở Đức. Nếu hình ma (Phantome, hình nộm, hình vẽ…) là con người hoặc động vật bị thương, môi trường cũng bị ảnh hưởng theo cách tương tự.
V 60 Công thức sau đây được khuyến nghị cho mục đích tà thuật chống lại chứng đau răng. Cần phải đóng một chiếc đinh mới vào nướu ba lần. Sau đó, cần chôn đinh vào hầm hướng về phía đông bằng một câu thần chú.
V 61 Một học sinh được điều trị khối u ở cánh tay. Sử dụng phép thuật, người ta chôn một quả trứng gà và đặt một hòn đá lên trên. Khi quả trứng thối rữa trong đất, khối u sẽ co lại. Biểu tượng ma thuật đã dẫn tới thành công.
Hành động tượng trưng thường được hỗ trợ bởi một vật sùng bái. Vật phẩm trang trí là một vật thể có chứa năng lượng ma thuật. Vật phẩm này được cho là mang theo sức mạnh. Hầu hết thời gian, những điều vô lý đều được coi là vật sùng bái, ví dụ như xương người, dơi, nước tiểu, phân, lông mu, móng tay, gỗ quan tài và nhiều thứ khác nữa. Bất kỳ vật thể nào được yển bùa chú và tích điện đều có thể trở thành vật sùng bái. Một ví dụ:
V 62 Vợ của một nhà truyền giáo đã nhận được một loại thuốc mỡ từ một phụ nữ sùng đạo trong cộng đồng do một thầy bùa phép chuẩn bị bằng cách sử dụng bùa chú. Thuốc mỡ có tác dụng nhanh chóng. Nó không có tác dụng như một loại thuốc, mà như một vật tôn thờ, như một tác nhân mạnh mẽ. Sau khi điều trị, vợ của nhà truyền giáo đã bị gãy tay. Con gái bà, người trước đây đã có những tiến triển tốt trong đời sống đức tin, từ đó không còn có thể tin và cầu nguyện nữa.
V 63 Trong một chuyến truyền giáo ở Thụy Sĩ, tôi được thông báo trong quá trình chăm sóc mục vụ rằng một tu viện Công giáo phân phát bùa hộ mệnh (vật linh) cho người dân để bảo vệ họ khỏi bệnh tật và dịch bệnh. Đây là những chiếc túi nhỏ. Một người tò mò đã cắt mở một trong những chiếc túi này. Trong đó có cả móng chân và vỏ trứng. Báo cáo này nghe có vẻ không có khả năng xảy ra. Thật không may, tôi thường phát hiện ra rằng một số tu viện có thực hành phép thuật.
Ý nghĩa của câu thần chú vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Một đại diện nổi tiếng của phép thuật chữa bệnh, Traugott Egloff ở Zurich, nói về tính tức thời của từ ngữ và giải thích rằng từ ngữ tự nó là một sức mạnh tạo nên phép màu. Chúng tôi tin rằng khi người niệm thần chú sử dụng những từ ngữ trong Kinh thánh, họ đã tách chúng ra khỏi Chúa, cô lập chúng và tôn sùng lời nói ra. Người đó đã đặt những tạo vật chống lại Đấng Tạo Hóa.
Sự cô lập này của từ ngữ dẫn đến việc sử dụng máy móc và do đó dẫn đến sự trống rỗng. Giáo sư Bender nói về vấn đề này: “Cơ học thực chất là thứ ma thuật và ma quỷ.”
Tuy nhiên, một lời tách biệt và cô lập khỏi Chúa không thể tồn tại độc lập như một thực thể độc lập. Nội dung bên từ nguồn ngoài đang được truyền trực tuyến lúc đó. Những gì đã tách khỏi Chúa và sa ngã sẽ rơi vào tay ma quỷ. Do đó, việc sử dụng các từ ngữ trong Kinh thánh theo cách máy móc và ma thuật chính là ma quỷ và phù thủy. Lời Chúa ban ra để cứu rỗi con người, lại trở thành một kỹ thuật huyền bí, một tai ương và gánh nặng cho con người.
Do đó, chúng ta phản đối quan điểm của những người niệm thần chú rằng từ này không phải là công cụ trực tiếp mà là công cụ trung lập. Nó có thể được sử dụng cho mục đích tốt hoặc xấu. Điều đó phụ thuộc vào nguồn cảm hứng từ trên cao hay từ bên dưới ẩn chứa sau từ ngữ đó. Người làm chứng có thẩm quyền của Chúa Jesus sử dụng Lời Chúa theo như được Đức Chúa Trời cho phép. Pháp sư, người niệm thần chú, sử dụng từ ngữ này như một công cụ ma thuật bị quỷ ám.
V 64 Một mục sư đã kể với tôi về một cái chết kỳ lạ xảy ra trong giáo xứ của ông. Một người đàn ông đang hấp hối và có tiếng là phù thủy. Trong 14 ngày, người đàn ông hấp hối rên rỉ: “Hãy lấy đi Lời của tôi, hãy lấy đi Lời của tôi, để tôi có thể tìm thấy sự bình yên.” Người thân đã đến gặp Mục sư để xin lời khuyên. Ông cảnh báo không nên đáp lại yêu cầu của người sắp chết. Sau khi bị tra tấn khủng khiếp, tên phù thủy đã chết. Vị linh mục giải thích rằng người đàn ông đó có làn da đen như than khi ở trong quan tài. Nhiều pháp sư chỉ tìm thấy sự bình yên khi phép thuật đã bị cất đi khỏi họ và họ có nghĩa vụ chuyển giao việc bùa chú.
Nghi Lễ Ma Thuật. Có những cuốn sách ma thuật có ý nghĩa đối với các nhà phù thủy giống như Kinh thánh hoặc sách tôn giáo đối với cơ đốc nhân. Có rất nhiều tài liệu về huyền bí. Phổ biến nhất hiện nay là Sách Môi-se thứ 6 và 7. Thật không may, một nhà xuất bản ở Braunschweig đã cho ra mắt phiên bản mới của cuốn sách này. Cuốn sách này không liên quan gì tới Môi-se. Tên gọi này chỉ là tên ngụy trang. Các pháp sư muốn chứng kiến phép lạ trong phép lạ cây gậy của Moses. Vì thế, họ nghĩ rằng họ có thể chọn ông làm người phù hộ của mình. Quyển sách thứ 6 cho thấy con người có thể tiếp xúc với ma quỷ như thế nào. Cuốn sách thứ 7 hướng dẫn cách con người có thể chế ngự mọi thế lực trần gian, thiên đàng và địa ngục thông qua phép thuật. Đó là những cuốn sách ma thuật đã gây ra tác hại khủng khiếp cho dân tộc chúng ta. Những người đọc cuốn sách này là những người không hạnh phúc; Những ngôi nhà cất giữ cuốn sách này là những ngôi nhà không may mắn.
- Hậu Quả Của Ma Thuật Và Cách Khắc Phục
Mọi ví dụ về chăm sóc mục vụ đều cho thấy hậu quả khủng khiếp của phép thuật. Sự trợ giúp huyền bí phải trả giá đắt.
Nguyên lý hiệu suất thay thế. Ma thuật ở hầu hết mọi hình thức, ít nhất là về vẻ bề ngoài, đều song hành với các sự kiện trong Kinh thánh. Tuy nhiên, khi nói đến hiệu quả thì thực tế lại ngược lại. Sự giúp đỡ của thần thánh và phép lạ có tác dụng củng cố và xây dựng, trong khi sự giúp đỡ ma thuật lại phá hủy và phá đổ. Ma thuật chỉ mang lại sự giúp đỡ bề ngoài, nhưng lại có tác động nghiêm trọng đến những lĩnh vực khác. Những sự cứu trợ nhỏ ở một khu vực phải trả giá bằng gánh nặng khủng khiếp ở những khu vực khác. Lợi ích thay thế cao hơn nhiều lần so với sự hỗ trợ thực tế nhận được. Đây chính là cách mà Satan lừa dối nạn nhân của mình một cách khủng khiếp. Sau đây là hai ví dụ:
V 65 Khi sinh con, nữ hộ sinh phát hiện trẻ sơ sinh bị gãy xương. Bác sĩ không điều trị vết gãy xương mà nữ hộ sinh khuyên người thân đưa đứa trẻ ra khỏi nôi và chôn ở nơi mà cả mặt trời và mặt trăng đều không thể chiếu tới. Những người thân đã làm theo lời khuyên kỳ lạ này. Vết gãy xương của trẻ sơ sinh đã biến mất. Khi trẻ lớn lên, tình trạng mưng mủ xuất hiện ở xương mũi. Mủ luôn chảy ra từ mũi cô ấy. Không có biện pháp điều trị y tế nào có thể giúp ích. Ngày nay cô gái đã 28 tuổi và những rối loạn ở khoang mũi vẫn chưa được loại bỏ. Ngoài những rối loạn ở xương mũi, cô còn mắc chứng rối loạn bắt buộc phải chửi thề. Cô ấy thường xuyên phải nổi cơn thịnh nộ, phạm thượng và bị sốc mà không nhận ra nguyên nhân.
V 66 Một người đàn ông đang làm việc với sách Moses thứ 6 & 7 trong nhiều năm với ma thuật đen. Cuối cùng ông phải vào trại tâm thần. Vợ ông vẫn tiếp tục thực hành ma thuật đen. Bà ấy cũng chịu chung số phận. Sau đó, người con trai tiếp quản tài liệu huyền bí của cha mẹ. Cuối cùng, ông cũng phải vào viện dưỡng lão. Sau đó, vợ ông tiếp tục theo truyền thống huyền bí. Bà cũng bị bệnh tâm thần và phải bị giam giữ. Vì vậy, cả gia đình đã có mặt ở đó vào ngày 6/7. Sách Moses và các nghệ thuật đen bị phá vỡ. Sau đó, một người hàng xóm là bạn của gia đình ma ám này đã tiếp quản tài liệu về huyền bí. Ông cũng bị thúc đẩy bởi sự điên rồ và tò mò muốn thử nghiệm các công thức ma thuật đen. Ông cũng trở thành nạn nhân của ma thuật đen và phải vào viện tâm thần.
Phòng thủ sai lầm. Câu hỏi đặt ra bây giờ là làm sao có thể chống lại ma thuật đen. Có biện pháp phòng thủ hiệu quả nào không? Trong truyền thống ma thuật phổ biến, có quan niệm cho rằng ma thuật đen có thể được chống lại bằng ma thuật trắng. Thực tế đã chứng minh rằng hình thức hỗ trợ này không hiệu quả. Về nguyên tắc, điều này là không thể vì ma thuật trắng có bản chất ma quỷ giống như ma thuật đen. Ở đây ma quỷ sẽ mâu thuẫn với chính mình. Tuy nhiên, đôi khi một pháp sư có thể chống lại được pháp sư kia. Nhưng điều này dựa trên sức mạnh ma thuật lớn hơn của người chiến thắng. Một cuộc đấu tay đôi diễn ra ở đây và người mạnh hơn sẽ chiến thắng. Tuy nhiên, đôi khi một pháp sư có thể chống lại được pháp sư kia. Nhưng điều này dựa trên sức mạnh ma thuật lớn hơn của người chiến thắng. Một cuộc đấu tay đôi diễn ra ở đây và người mạnh hơn sẽ chiến thắng.
Vũ khí thuộc linh. Phao-lô nói, “Vũ khí chiến tranh của chúng ta là thuộc linh, chứ không phải thuộc xác thịt” (2 Cô-rinh-tô 10:4). Bất kỳ quá trình ma thuật nào cũng có thể được ngăn ngừa bằng lời cầu nguyện trung thành. Điều này cũng cho thấy ma thuật trắng và ma thuật đen là một. Cả hai đều đáp lại lời cầu nguyện chân thành theo cùng một cách. Một số ví dụ:
V 67 Một người đàn ông sùng đạo đã gọi một nhà chữa bệnh bằng từ trường chữa bệnh cho đứa con trai đang bị bệnh của mình. Người cha tin kính cầu nguyện thầm rằng Chúa Giê-xu sẽ ngăn cản việc chữa lành nếu người đàn ông không làm việc bằng sức mạnh đúng đắn của mình. Người hành nghề y thay thế xuất hiện, nhìn bệnh nhân và tự nhiên tuyên bố: “Tôi không thể giúp được gì ở đây.”
V 68 Một người đàn ông bị bệnh lao xương, được chữa khỏi bằng phương pháp ma thuật trắng. Cơn đau đã giảm ngay sau lần đọc bùa chú. Người đàn ông này tham gia vào nhiều hình thức ma thuật khác nhau. Ông ấy giữ rất nhiều sách ma thuật trong căn hộ của mình, ví dụ như: Ví dụ: “Bảy thanh chắn của thiên đường”, “Phước lành của Tobias”, “Lá thư hộ mệnh của Giăng”, thư định kỳ và thư chúc may mắn. Ông thậm chí còn mang theo những lá thư hộ mệnh được khâu vào quần áo của mình. Một ngày nọ, trong cơn đau khổ tột cùng về mặt tinh thần, ông đã tìm kiếm con đường đến với Chúa Giê-xu. Ông đã cố gắng cầu nguyện nhưng không được. Một mặt, ông rất mong muốn đến với Đấng Christ, nhưng mặt khác, ông lại cảm thấy vô cùng chán ghét và ghê tởm Chúa Giê-xu và Lời Kinh Thánh. Nỗi đau khổ này khiến ông phải tìm đến sự tư vấn mục vụ và giao nộp toàn bộ sách ma thuật của mình. Ông cảm thấy tinh thần thoải mái và thư giãn rõ rệt.
V 69 Một người phụ nữ trung thành với nhà thờ và cộng đồng Cơ đốc giáo trở nên u sầu. Trong cơn tuyệt vọng, cô đã cắt cổ tay mình. Những người bạn cùng nhà đã phát hiện ra cô kịp thời và ngay lập tức gọi bác sĩ. Cô ấy đã được cứu sống nhờ truyền máu. Sau sự việc này, người phụ nữ đã đến gặp một viên chức là bạn của tôi, người đã giới thiệu người phụ nữ đang tìm kiếm sự giúp đỡ đến một bác sĩ có đức tin. Vì việc đi khám bác sĩ rất bất tiện nên bà đã tìm lời khuyên từ một trưởng lão trong nhà thờ. Người cơ đốc nhân kỳ lạ này đã giới thiệu người phụ nữ này đến một thầy lang có phép thuật chữa bệnh. Người phụ nữ làm theo lời khuyên và tìm đến thầy lang chữa bệnh. Vị bác sĩ phép thuật này giải thích với người phụ nữ kinh ngạc: “Trong trường hợp của bà, tôi không thể giúp được gì, mọi người đang cầu nguyện cho bà. Khi mọi người ngừng cầu nguyện, bà được phép đến lần nữa. Khi đó tôi có thể chữa lành cho bà.” Người cảnh sát là bạn của tôi đã báo cáo sự việc này với tôi và nói thêm rằng ông ấy và vợ đã cầu nguyện cho người phụ nữ u sầu này trong một thời gian dài.
V 70 Một nhà huyền bí học muốn tiến hành một buổi tối thực hiện thí nghiệm ma thuật. Vị mục sư địa phương sùng đạo đã mời một số người đàn ông có cùng chí hướng đến gặp ông. Họ đã tham dự sự kiện và cầu nguyện trong suốt buổi biểu diễn. Các thí nghiệm của nhà huyền bí học đã không thành công vào tối hôm đó. Cuối cùng, người đàn ông hào hứng giải thích rằng đã có sự xáo trộn và xung đột, và những kẻ gây rối nên rời khỏi phòng. Những người đàn ông có đức tin không thực hiện yêu cầu này vì họ đã trả phí vào cửa rồi. Do đó, bài thuyết trình thực nghiệm huyền bí này đã thất bại.
V 71 Có một cặp vợ chồng theo đạo Thiên Chúa sống trong nhà của một người phụ nữ giỏi về ma thuật đen. Một ngày nọ, nhà phép thuật gia giải thích rằng bà biết cách “giết người” mà không để họ phát hiện. Nữ phù thủy đen này đã tiến hành các thí nghiệm ma thuật bằng cách cố gắng gây ảnh hưởng và hành hạ những người mà bà ta không ưa. Khi gia đình sống cùng bà đặt toàn bộ cuộc sống của họ dưới sự bảo vệ của Đấng Christ, mụ phù thủy đen đã vô cùng tức giận vì bà không còn có thể sử dụng ảnh hưởng của mình với những người thuê nhà nữa.
V 72 Một kỹ sư bị liệt đã được một thầy phù thủy chữa khỏi bệnh bằng bùa chú. Hai người chị có đức tin của ông đã cầu nguyện rất nhiều cho sự chữa lành của anh trai mình. Người thầy thuốc không thành công trong việc chữa trị và giải thích: “Tôi không thể giúp ông được. Có người đang cầu nguyện cho ông.”
Những ví dụ này cho thấy thực tế rằng lời cầu nguyện chân thành cản trở phép thuật, và những người được chữa bệnh bằng phép thuật sẽ bị xáo trộn trong lời cầu nguyện và đức tin của họ. Vì vậy, ma thuật có thể bị ngăn chặn bằng vũ khí thuộc linh trong Kinh thánh.
Sự giải phóng nhờ Chúa Giê-xu. Bác sĩ tâm thần, bác sĩ tâm lý trị liệu và nhà tâm lý học không có trách nhiệm điều trị cho những người có vấn đề về ma thuật. Gánh nặng ma thuật hay huyền bí không phải là vấn đề y khoa hay tâm lý, mà là sự thật mục vụ trong Kinh thánh. Sự cứu trợ và giải thoát chỉ có thể đạt được qua Chúa Giê-xu. Chỉ khi người mang gánh nặng muốn
đến với Chúa thì sự giúp đỡ mới thực sự và trọn vẹn.
V 73 Nhà truyền giáo M. S. đã gặp một cô gái trong nhà trọ cơ đốc, người từng là nô lệ của quỷ dữ khi còn trẻ. Người giám đốc nhà trọ giải thích với nhà truyền giáo rằng bà không thể chăm sóc được cô gái này. Người truyền giáo cho cô gái vào phòng và bắt đầu thực hiện trận chiến tâm linh. Sự chăm sóc mục vụ và lời cầu thay của bà đã dẫn đến sự giải thoát hoàn toàn cho cô gái bị quỷ ám.
V 74 Một chàng trai trẻ theo đuổi một cô gái thuộc tầng lớp xã hội cao hơn. Thông thường, anh ta có rất ít cơ hội thành công. Để đạt được mục đích của mình, anh ta đã thề hiến máu cho quỷ dữ. Anh ta cắt ngón tay mình, viết một bản hợp đồng bằng máu và đặt tờ giấy vào trong hang động. Bằng cách này, anh ta muốn có được sức mạnh để thực hiện bùa yêu. Ngay sau khi kê đơn máu này, anh bắt đầu cảm thấy sợ hãi. Anh ta muốn đảo ngược hợp đồng, đi đến hang động, nhưng không tìm thấy hợp đồng máu nữa. Anh đã nhận được sự đồng ý của cô gái và có một cuộc hôn nhân rất hạnh phúc với cô. Cô ấy là một phụ nữ trẻ có vẻ đẹp đặc biệt. Khi người vợ trẻ sinh đôi, cả hai đứa trẻ đều bị biến dạng khủng khiếp. Người phụ nữ quá sợ hãi và đã chết khi sinh con. Từ lúc ký hợp đồng bằng máu, người đàn ông này không được yên nghỉ cả ngày lẫn đêm. Cuối cùng, nỗi đau khổ đã thúc đẩy ông đến với sự tư vấn tâm hồn. Ông đã thú nhận tội lỗi, từ bỏ mọi quyền lực đen tối và dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa Jesus Christ. Sau khi cải đạo, ông trở thành nhân chứng sống của Chúa Giê-xu. Một năm rưỡi sau bước ngoặt này trong cuộc đời, ông đã có thể bước vào cõi vĩnh hằng trong sự bình an với Chúa.
V 75 Một cô gái kết hôn với một người đàn ông đã mang sách Moses thứ 6/7 vào cuộc hôn nhân. Người phụ nữ trẻ đã phải chịu đựng những cơn lo âu nghiêm trọng trong cuộc hôn nhân trẻ của mình. Cô nhìn thấy ma và thường cảm thấy vào ban đêm như có một sức mạnh vô hình muốn bóp cổ mình. Người đàn ông này là một bạo chúa nóng tính. Anh ta đánh vợ mình. Khi đứa trẻ đang trên đường chào đời, ông ta đã ép họ phá thai bằng thuốc. Ông ta đòi hỏi những điều đồi bại từ vợ mình. Cuối cùng, cô gái trẻ muốn chấm dứt nỗi đau khổ của mình. Cô ấy đã uống tám viên thuốc ngủ và amoniac để tự nguyện kết thúc cuộc đời mình. Nhưng cô ấy vẫn có thể được cứu. Sau đó, bà tìm kiếm sự giúp đỡ mục vụ và có được niềm tin chắc chắn.
V 76 Một người phụ nữ sống với một thầy phù thủy trong nhiều năm. Vào ban đêm, bà ấy sợ hãi bởi những hiện tượng ma quái kỳ lạ. Thường thì một bóng đen xuất hiện, hoặc bà nhìn thấy những con rắn trong phòng. Trong nỗi sợ hãi và đau khổ, bà đã đến để được tư vấn mục vụ. Bởi đức tin, bà đã dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa Giê-xu. Mỗi buổi tối, bà đều có ý thức đặt mình dưới sự bảo vệ của Chúa. Từ đó trở đi, hiện tượng ma quái đã hoàn toàn biến mất.
V 77 Vợ của một vị trưởng khoa bị bệnh tâm thần. Bà cũng thể hiện nhiều kỹ năng trung gian (đồng cốt, truyền thông) khác nhau. Bà ấy bị ảo giác về thị giác và thính giác. Một cô gái Swabia ngoan đạo được giao nhiệm vụ chăm sóc người phụ nữ bị bệnh này. Cô gái đã can thiệp bảo vệ vợ của vị trưởng khoa. Dần dần, người ta có ấn tượng rằng bệnh nhân không chỉ bị bệnh tâm thần mà còn mắc phải các vấn đề huyền bí. Khi vợ của vị trưởng khoa lại lên cơn một lần nữa, cô gái đã ra lệnh cho các thế lực đen tối phải rời đi nhân danh Chúa Jesus. Bệnh nhân ngay lập tức trở nên bình tĩnh.
V 78 Một người phụ nữ có đức tin đã cầu thay cho một người phụ nữ buồn rầu. Người phụ nữ u sầu đã hoàn toàn thoát khỏi chứng trầm cảm. bà lại trở vui tươi như một đứa trẻ. Từ đó trở đi, người phụ nữ trung tín này thường trải qua những sự tấn công kỳ lạ vào ban đêm. Bà cảm thấy như thể có ai đó trong phòng muốn giết mình. Toàn thân người phụ nữ run rẩy và trở nên vô cùng sợ hãi. Cuối cùng, bà cầu nguyện với Chúa và truyền lệnh cho quyền lực bóng tối phải rời đi nhân danh Chúa Jesus. Sức mạnh đen tối đã biến mất và bà sẽ không còn phải đối mặt với bất kỳ thử thách nào trong tương lai nữa.
V 79 Alfred Zeller, người của Đức Chúa Trời, ông là người sáng lập ra tổ chức Ngôi làng đàn ông (Männedorf), được một người phụ nữ hỏi xin lời khuyên. Đứa con của bà bị hành hạ mỗi đêm từ 12 giờ đêm đến 1 giờ sáng và khóc rất dữ dội. Zeller hỏi người phụ nữ về việc chăm sóc đứa trẻ, đứa trẻ có đói không, có khô không, có lạnh không, có vấn đề gì về dinh dưỡng không, v.v. Ông không thể đồng tình với quan điểm của người phụ nữ rằng đó là một cuộc truy đuổi ma thuật. Vì người phụ nữ đó liên tục đến thăm ông nên cuối cùng ông đã đồng ý đến căn hộ và cầu nguyện cùng đứa trẻ bằng cách đặt tay lên người nó. Trong lúc Alfred Zeller đang cầu nguyện với đứa trẻ, cánh cửa mở ra và một người đàn ông nhỏ bé, nhăn nheo với ánh mắt sắc sảo bước vào. Không chào hỏi, kẻ đột nhập hỏi: “Có chuyện gì thế? ” Zeller nhìn kẻ đột nhập. Cùng lúc đó, anh nhận được cái nhìn khinh miệt từ kẻ lạ mặt nham hiểm. Zeller cầu nguyện thầm và đáp lại cái nhìn sắc bén của người đàn ông. Một cuộc đấu trí nổ ra. Cả hai người đàn ông đều nhìn chằm chằm vào nhau. Zeller cầu nguyện thầm: “Chúa Giê-su đã chiến thắng!” Rồi ánh mắt của người lạ biến mất. Zeller đã chiến thắng khi kêu cầu Chúa Jesus Christ. Người lạ vội vã chạy xuống hồ và nhảy xuống nước. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác ông.
Tất cả những ví dụ về việc chăm sóc mục vụ này cho thấy rằng Chúa Giê-xu đã hoàn toàn khắc phục được những tác động của ma thuật. Bất cứ ai “Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do”… “Sở dĩ Con Đức Chúa Trời đã hiện ra, là để hủy phá công việc của ma quỉ” (Giăng 8,36; 1 Giăng 3:8 BHĐ). “Đấng Christ đã giải cứu chúng ta khỏi quyền lực của bóng tối” (Cô-lô-se 1:13). Cách thức hướng dẫn mục vụ về vấn đề giải phóng được cấu trúc chi tiết như thế nào đã được thảo luận trong các cuốn sách của tôi “Chăm sóc mục vụ và huyền bí” và “Chữa lành và giải phóng”. Những ấn phẩm này được liệt kê trong phần tài liệu tham khảo ở cuối. Con đường giải thoát có thể được phác thảo tóm tắt ở đây.
Bất cứ ai chỉ muốn được tự do mà không đến với Chúa sẽ không nhận được sự giúp đỡ quyết định nào. Gánh nặng ma thuật không phải là một căn bệnh như hầu hết các bác sĩ tâm thần vẫn nói, mà là ảnh hưởng của thế lực ma quỷ. Các bác sĩ tâm thần đều đồng ý với tôi về điều này. Để nhận ra sự thật như vậy, người ta phải được Thánh Linh của Chúa mở mắt. Ở đây, chỉ có bằng y khoa hoặc thần học thôi là không đủ. Trong quá trình tìm kiếm sự tự do, lời ăn năn chung là điều nên làm. Việc ăn năn là tự nguyện. Nhưng tôi chưa bao giờ trải nghiệm sự nhẹ nhõm trong lĩnh vực này mà không có lời ăn năn. Điều cần thiết là một lời cầu nguyện để thoát khỏi các thế lực đen tối. Trong một số trường hợp nhất định, mục sư có thể ra lệnh nhân danh Chúa Jesus. Điều quan trọng nhất là sử dụng một nhóm cầu nguyện nhỏ để mang lại lợi ích cho người đang chịu gánh nặng. Ngày nay vẫn còn những cơ đốc nhân kiêng ăn để ủng hộ việc cầu thay. Do đó, chúng có căn cứ theo Kinh Thánh (Ma-thi-ơ 17:21). Người được giải thoát phải trung tín trong việc sử dụng các phương tiện ân điển (Công vụ 1:14). 2:42: Lời Chúa, sự hiệp thông của các tín hữu, việc bẻ bánh, sự cầu nguyện.
Chiến thắng cuối cùng là của Chúa Jesus Christ. Nguyện danh Ngài được ngợi khen trên hết mọi sự!
Chương 3: THUYẾT THÔNG LINH (SPIRITISM) – từ góc nhìn của chăm sóc mục vụ
Thuật ngữ chủ nghĩa tâm linh có nguồn gốc từ tiếng Latin spiritus, có nghĩa là tinh thần, linh. Do đó, nó có thể được dịch sang tiếng việt là học thuyết về linh, hoặc sùng bái vong linh. Phong trào này được hiểu là nỗ lực tiếp xúc với người chết ở thế giới bên kia.
Về mặt lịch sử, thuyết tâm linh đã có từ hàng ngàn năm trước. Chúng ta có bằng chứng về điều này trong Cựu Ước (1 Sam. 28; Phục truyền luật lệ ký 18:10f), cũng như nhiều manh mối trong lịch sử của giáo hội Cơ đốc. Phần lớn tài liệu có nguồn gốc từ lịch sử tôn giáo và lịch sử truyền giáo. Các tôn giáo không phải cơ đốc giáo phần lớn có xu hướng hướng đến tâm linh. Nếu thuyết duy linh chỉ là một hiện tượng ngoại giáo-tôn giáo mà không có ý nghĩa gì thêm đối với công việc hiện tại của Vương quốc Đức Chúa Trời, thì mục sư sẽ không cần phải xử lý nó một cách nghiêm túc.
Tuy nhiên, trong việc chăm sóc mục vụ tại các quốc gia được gọi cơ đốc, có rất nhiều hình thức duy linh với nhiều nhu cầu tâm linh phức tạp đến mức việc cung cấp thông tin về chúng trở thành điều bắt buộc trong công tác truyền giáo.
Chủ nghĩa duy linh đã trở thành mối đe dọa trên toàn thế giới đối với cộng đồng Cơ đốc giáo và thông điệp Cơ đốc.
- Những Hiện Tượng Tâm Lý
Trong công tác mục vụ, người truyền giáo và hầu việc Chúa đôi khi nhận thấy rằng trong khi thảo luận, mọi người đột nhiên muốn kể về những trải nghiệm tâm linh của họ như những giấc mơ, thị kiến, hiện tượng hoặc sự kiện có thật. Những điều này luôn đòi hỏi sự kiềm chế và thận trọng tối đa. Chắc chắn có những kinh nghiệm được mang lại bởi Lời Chúa và Thánh Linh của Chúa. Tuy nhiên, hoạt động thực sự trong lĩnh vực này luôn được đặc trưng bởi sự trong sạch về mặt tâm linh. Bất kỳ ai tạo ra cảm giác tâm linh từ nó hoặc thậm chí trở thành kẻ buôn bán tâm linh đều đang chứng minh tính không chân thực của những trải nghiệm của mình. Việc quan sát hoạt động tư vấn truyền giáo dạy chúng ta rằng, thật không may, những trải nghiệm tâm linh sai lầm lại chiếm ưu thế. Chúng thường nhiều hơn những trải nghiệm thực tế gấp chín lần. Chúng ta đang sống trong một thế giới ngày càng xa rời Chúa. Cái ác, ma quỷ, Satan có phạm vi rộng lớn nhất. Với sức mạnh thuyết phục, ngày nay niềm tin rằng chúng ta đang sống trong một thời đại đặc biệt mà tiên tri giả của thời kỳ cuối cùng đang xuất hiện. Lời cảnh báo của Sứ đồ Phao-lô (2 Cô-rinh-tô 11:14-15) được ứng nghiệm với sức mạnh và sự nghiêm khắc đáng kinh ngạc: “Ngay cả Sa-tan cũng đội lốt thiên sứ sáng láng. Vậy nên, chẳng có gì lạ nếu những tôi tớ của nó cũng cải trang thành tôi tớ của sự công chính; số phận của họ sẽ tùy theo việc làm của họ.” Trong lĩnh vực tâm linh, tính hợp pháp và sự liên quan của lời cảnh báo này là hiển nhiên.
Ví dụ 1 Một sinh viên thần học đến xin tư vấn mục vụ và yêu cầu giải thích về một trải nghiệm kỳ lạ. Ông kể lại rằng ông đã nhiều lần trông thấy Chúa Giê-xu vào ban đêm. Tuy nhiên, ông luôn có cảm giác kỳ lạ trong những lần Chúa Giê-xu hiện ra vào ban đêm. Ông sẽ không cảm thấy vui mà luôn sợ hãi nó. Sau đó, tôi giải thích với sinh viên thần học rằng về cơ bản, việc nhìn thấy Chúa Giê-xu là có thể, nhưng trong hầu hết các lần hiện ra như vậy, tình huống lại khác. Ví dụ có sự thể hiện bên ngoài của trí tưởng tượng sống động và ngoan đạo. Một thực tế đã được xác lập trong lĩnh vực tâm lý học là những người theo huyết hình ảnh có thể nhìn thấy những ý tưởng bên trong của họ dưới dạng hình ảnh quang học. Ngoài ra còn có nhiều dạng ảo giác khác nhau. Chúng ta biết từ thế giới Kinh Thánh rằng những khải tượng đích thực về Chúa Giê-xu đã khơi dậy cảm giác tội lỗi ở những người được ban phước. Nhưng cảm giác tiêu tan bên trong này hoàn toàn khác với nỗi sợ hãi khủng khiếp. Người sinh viên ngay lập tức hiểu ra sự khác biệt này và giải thích rằng anh không có cảm giác tội lỗi trong những lần hiện ra này, mà là cảm giác sợ hãi kỳ lạ. Sau đó tôi hỏi anh ấy liệu anh ấy liệu tổ tiên của anh ấy có tham gia vào các hoạt động huyền bí không. Anh thú nhận rằng mẹ và bà của anh là những người theo thuyết tâm linh và thực hành nghề cầu cơ xoay bàn kính (Gläserrücken). Điều này làm cho bản chất của cái gọi là khải tượng về Chúa Giê-xu trở nên rõ ràng đối với tôi. Đây là hiện tượng trung gian (thông linh, đồng cốt) chứ không phải hiện tượng thần khí.
V 2 Trong một gia đình nọ, ông cố là một người theo thuyết tâm linh tích cực. Trong nhiều năm, ông đã thực hành nghề xoay bàn cầu cơ. Ông tin rằng đây là cách giao tiếp với người chết. Ông theo đuổi hoạt động huyền bí này quá mức đến nỗi mắc phải chứng rối loạn tâm thần. Những ảnh hưởng của việc thực hành tâm linh trở nên rõ ràng hơn ở con cháu của ông. Người con trai cả đã tự tử. Người con trai thứ hai mắc chứng hoang tưởng. Người con gái lớn bị đưa vào trại tâm thần vì mắc bệnh tâm thần. Người con gái thứ hai bị bệnh liệt Parkinson. Đến lớp con cháu giống hệt như vậy. Một người cháu trai mắc chứng tâm thần phân liệt. Cháu gái được coi là người yếu đuối và quá nhạy cảm, và cô ấy cũng phải chịu đựng cảm giác tự ti sâu sắc. Một đứa cháu gái khác thì sống cuộc sống sa đọa. Cô ấy đã sinh con ngoài giá thú. Đứa chắt đầu tiên lứa này là một kẻ tâm thần và khó giáo dục.
V 3 Một phụ nữ trẻ đến xin tư vấn mục vụ và phàn nàn về nhiều chứng rối loạn tâm thần khác nhau. Cô chịu đựng sự suy nhược của cuộc sống và nỗi buồn. Cô thường xuyên nổi cơn thịnh nộ khủng khiếp. Cuộc hôn nhân của cô bị tan vỡ vì sự lạnh lùng của cô. Có những vụ ma ám thực sự trong ngôi nhà của cô. Người chồng đầu tiên nhận thấy những hình thù kỳ lạ. Tuy nhiên, anh không nói với vợ mình về điều đó để không làm cô ấy sợ hãi một cách không cần thiết. Những ngôi nhà ma ám đã được quan sát một cách khách quan. Lúc đầu, người chồng nhận thấy những hình thù lạ. Nhưng anh không nói với vợ mình về chuyện này để tránh làm cô ấy lo lắng không cần thiết. Cuối cùng, chính cô đã nhìn thấy những hình bóng bị cắt chém trong căn hộ của mình vào ban đêm. Đầu tiên, trong cuộc trao đổi này, tôi đã xác định những căn bệnh trước đây của người phụ nữ đang xưng tội. Sau đó, tôi cũng được nghe kể về bệnh tật của những người thân trong gia đình và tổ tiên. Nhưng người xưng tội lại là một người cô đơn vì những chứng rối loạn của mình. Khi được hỏi về hoạt động huyền bí, sau nhiều lần cân nhắc, kết quả như sau: Khi còn nhỏ, người phụ nữ này là thành viên của một nhóm phụ nữ trẻ Tin Lành. Vợ của mục sư với tư cách là người lãnh đạo nhóm này đã thực hành xoay bàn cầu cơ cùng với tất cả các cô gái. Sự xoay bàn luôn bắt đầu bằng câu hỏi: “Thần Linh ơi, người có ở đó không? ” Gõ một lần nghĩa là có, gõ hai lần nghĩa là không. Nếu Thần Linh sẵn sàng trả lời câu hỏi, một trò chơi hỏi đáp bắt đầu, trong đó toàn nhóm các cô gái và người kể lại câu chuyện này đều tham gia. Vợ của mục sư đã hành nghề xoay bàn trong nhiều năm cho đến khi một cơn đột quỵ khiến bà bị liệt. Người xưng tội cũng kể lại rằng các cô gái trong nhóm sợ đến thăm vợ mục sư vì khuôn mặt của bà nhăn nhó khủng khiếp do bị liệt.
Về mặt khoa học, ví dụ này ở mức V 3. Liên quan đến cơn đột quỵ của vợ mục sư, tôi muốn báo cáo từ góc nhìn của hơn một nghìn trường hợp huyền bí rằng đột quỵ, tự tử, tai nạn chết người và các trường hợp vào trại tâm thần thường xuyên được quan sát thấy trong số những người hành nghề huyền bí.
V 4 Một người quản lý bất động sản đã nói với tôi rằng mẹ vợ của ông có khả năng nhìn xa trông rộng. Với sự trợ giúp của xoay bàn kính cầu cơ, bà có thể dự đoán mọi sự kiện trong tương lai. Trong chiến tranh, bà từng khiến gia đình ngạc nhiên khi tuyên bố: “Hubert chết ở Kurland do trúng đạn trên không”. Hubert là họ hàng của bà. Nửa năm sau, người họ hàng này đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công bằng máy bay chiến đấu ném bom từ trên không. Đối với mọi quyết định quan trọng, người phụ nữ này đều tìm lời khuyên qua bàn kính cầu cơ.
Đối với các nhà khoa học, vấn đề dự báo thời gian là một vấn đề lớn. Trong tác phẩm khoa học “Chăm sóc mục vụ và huyền bí học”, Tiến sĩ Kurt Koch trình bày chi tiết 30 lý thuyết thấu thị nổi tiếng nhất. Về phương diện mục vụ, chỉ cần nêu ra Tân Ước là đủ. Chúng ta tìm thấy trong đó một lời tiên tri được linh cảm, thúc đẩy bởi “tiên tri tên là A-ga-bút ở xứ Giu-đê” (Công vụ 21:10) và một lời bói toán của ma quỷ (Công vụ 16:16, một đầy tớ gái bị quỉ Phi-tôn hay linh Phi-tôn tức là ma-quỉ hay bói-khoa
bói khoa ám vào).
V 5 Một mục sư Tin Lành đã tham dự một buổi nhóm tâm linh để kiểm tra một nhà ngoại cảm. Người này bước vào trạng thái xuất thần (một dạng ngủ sâu thôi miên). Sứ đồ Phao-lô được cho là đã xuất hiện và thuyết giảng cho những người có mặt. Vị tông đồ không xuất hiện mà chỉ nói chuyện thông qua người trung gian đang trong trạng thái xuất thần. Vị mục sư theo dõi bài giảng của vị tông đồ được cho là đang có mặt với sự chú ý lớn nhất. Nhưng ông lại vô cùng thất vọng với nội dung. Bài giảng được gọi là của Phao-lô này không có điểm gì chung với các lá thư của sứ đồ. Bài giảng có vẻ như là sản phẩm của phương tiện trung gian (đồng cốt, truyền thông linh) và chủ yếu bao gồm từ một số câu nói đạo đức trau chuốt theo phong cách cơ đốc. Vị Mục sư không hề tin vào hoạt động tâm linh này nhưng cho rằng đó là một sự lừa dối vô thức.
V 6 Một người đàn ông tự nhận mình có khả năng thấu thị, anh ta sử dụng khả năng này để tìm kiếm những người lính mất tích. Một người phụ nữ có hai người con trai ở Mặt trận phía Đông đã chụp hai bức ảnh về hai người con trai mất tích và đi tìm nhà ngoại cảm này. Đầu tiên cô ấy đưa ra một bức ảnh. Nhà ngoại cảm tập trung vào bức ảnh, xuất thần và giải thích với người phụ nữ đang chờ: “Tôi không thể liên lạc được với người con trai này. Người con trai có lẽ đã không còn sống nữa.” Sau đó, người phụ nữ đưa ra bức ảnh người con trai thứ hai để xác minh, người được chỉ huy đại đội của anh báo tử vào năm 1943. Nhà ngoại cảm cũng tập trung vào hình ảnh này và trả lời: “Tôi đang liên lạc với người con trai này. Tôi thấy anh ấy trong một tòa nhà đá lớn, phía đông nam Moscow. Người con trai này sẽ trở về sau thời gian bị giam cầm vào đầu năm 1954.” Người phụ nữ không tin thông tin của nhà ngoại cảm, vì con trai bà được báo tử từ năm 1943 và không bao giờ có dấu hiệu sống lại nữa. Họ càng ngạc nhiên hơn khi người con trai được báo tử này thực sự trở về nhà vào đầu năm 1954. Những thông tin khác cũng được chứng minh là chính xác. Người con trai này đã bị giam giữ nhiều năm trong trại giam, không phải trong doanh trại mà là trong một tòa nhà lớn bằng đá trắng. Người thấu thị này có khả năng tập trung vào một số đồ vật thuộc về một người lính mất tích. Nếu người đang được tìm kiếm vẫn còn sống, ông sẽ biết được tung tích của người đó.
Theo quan điểm của thuyết cận tâm lý, có hai đường thẳng song song ở đây. Người thấu thị hoạt động theo phương pháp trắc nghiệm tâm lý, nghĩa là họ lấy một vật từ người mất tích và sử dụng nó để bắt đầu cuộc tìm kiếm. Ông cũng tuyên bố có thể đưa linh hồn mình đi xa. Khả năng linh hồn du hành này được cho là chỉ có ở người Lapps ở Scandinavia và đặc biệt là người Tây Tạng. Ở Đức, đó là nhóm Rosicrucian, một số thành viên của nhóm này có và rèn luyện khả năng này. Những người theo thuyết tâm linh cho rằng có những người có thể đưa thể vía (astral body) của họ ra khỏi thể xác vật chất và giao phó cho nó những nhiệm vụ đặc biệt. Như vậy là chúng ta đã kết thúc chuyến tham quan các hiện tượng tâm linh chính của thuyết duy linh. Người ta rùng mình khi nhìn vào khu rừng đen tối của sâu thẳm nhân loại, nơi mà thuyết tâm linh đang hoạt động. Lời Chúa rõ ràng hơn, sáng hơn và rực rỡ hơn biết bao với mệnh lệnh này: “Ngươi Phải Hết Lòng, Hết Linh Hồn, Hết Trí Khôn, Hết Sức Lực Mà Yêu Mến Chúa Là Đức Chúa Trời Ngươi!” Mọi khía cạnh trong cuộc sống của chúng ta, mọi sức mạnh của tâm hồn chúng ta, đều phải hướng về Chúa Giê-xu Christ.
- Hiện Tượng Vật Lý
Trong nghệ thuật di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ, Sự bay lên và sự thu hồi, các định luật vật lý được khắc phục theo những cách chưa từng biết đến. Di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ là khả năng di chuyển từ xa mà không có nguyên nhân rõ ràng. Trong cách sử dụng của thuyết tâm linh, cụm từ này có nghĩa là sự trôi nổi tự do của các vật thể hoặc con người. Thuật ngữ apporte có nghĩa là mang đi và làm cho các vật thể biến mất, ngay cả khi đi qua những căn phòng kín. Hiện tượng thâm nhập của vật chất cũng là ở đây. Ví dụ sẽ làm rõ những quá trình kỳ lạ này.
V 7 Tại một ngôi làng miền núi xa xôi, mọi người rất lo lắng về một ngôi nhà ma ám. Trong một trang trại, các đồ vật bay trong không khí như thể bị ném bởi một bàn tay vô hình. Hơn nữa, đồ nội thất trong phòng cũng tự động di chuyển khỏi vị trí của chúng. Ngôi nhà ma ám đã được một Mục sư địa phương, giáo viên, thị trưởng, cảnh sát cùng nhiều viên chức và người dân tò mò đến điều tra. Những sự việc này chưa bao giờ được làm rõ đầy đủ. Người ta chỉ quan sát thấy hiện tượng di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ luôn xảy ra ở gần một cậu bé 14 tuổi. Ví dụ, giáo viên quan sát thấy một chiếc tủ gỗ sồi nặng trong phòng gần cậu bé trượt đi hai mét trong phòng.
V 8 Nhiều hiện tượng ma quái đã xảy ra trong một trang trại ở thung lũng núi cao. Bắt đầu bằng tiếng gõ và tiếng cào. Sau đó, các vật thể bay khắp phòng mà không rõ lý do. Điều kỳ lạ về những vật thể bay này là đôi khi chúng được ném theo góc vuông, một quá trình mà bàn tay con người không thể thực hiện được. Sự ám ảnh ngày càng trở nên phức tạp hơn. Các sự di chuyển xuất hiện, tức là sự xuất hiện và biến mất của các vật thể trong các không gian kín và những thùng chứa. Vào thời điểm này, một số bên quan tâm đã vào cuộc để tìm kiếm nguyên nhân của hiện tượng ma quái này. Một ủy ban nhỏ đã được thành lập để tìm ra nguyên nhân tự nhiên của những sự kiện này. Ủy ban này bao gồm một giáo sư, một kỹ sư điện và một nhà ngôn ngữ học am hiểu về hiện tượng tâm linh. Nhận xét đầu tiên của ủy ban này là phát hiện cậu bé 14 tuổi trong nhà có khả năng giao tiếp bằng ngoại cảm rất mạnh. Cậu đã thực hiện những hiện tượng di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ khá đáng kinh ngạc trước sự chứng kiến của ủy ban ba người này. Điểm nhấn trong màn trình diễn của cậu là việc nâng và di chuyển chiếc giường. Hiện tượng bay lơ lửng này được lặp lại nhiều lần. Chiếc giường được nhấc lên mặc dù ba người đàn ông đã cố gắng hết sức để giữ chiếc giường trên sàn nhà. Trong quá trình điều tra hiện tượng ma ám này, người ta phát hiện ra rằng các vật thể bay luôn xuất hiện có liên quan đến một cậu bé có khả năng ngoại cảm. Hơn nữa, phép thuật đã được thực hành trong ngôi nhà này. Những phát hiện từ một trong những nhà điều tra, Mục sư Tiến sĩ Koch, câu hỏi được đặt ra cho chủ nhà là: “Ông hoặc tổ tiên của ông có thực hành phép thuật hay thông linh gì không? ” Ngay lập tức ông ấy đồng ý và kể rằng cha ông từng là người niệm chú trên gia súc và niệm chú trừ bệnh. Theo Tiến sĩ Theo Koch, hiện tượng ngoại cảm chỉ xảy ra khi có người trung gian (đồng cốt, truyền thông linh) ở gần và trong những ngôi nhà từng thực hành những điều huyền bí. Trong nhiều vụ án ma ám mà ông đã điều tra, ông chưa bao giờ thấy quy tắc này bị phá vỡ. – Với ví dụ cuối cùng này, chúng ta đã gần đến hiện tượng ma thuật tâm linh (spiritualistic-magical phenomena).
- Hiện Tượng Trung gian (Thông Linh) – Ma Thuật
Bất kỳ ai xem xét các báo cáo trước đây, đặc biệt là các hiện tượng vật chất hóa, di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ, bay lơ lửng và ứng biến, đều hiểu rằng chúng có thể gây ra đủ loại tai họa. Quyền lực trung gian (truyền thông linh, đồng cốt) kiểu này có thể gây ra thảm họa cho những nhân vật thấp kém hoặc thậm chí là bản chất tội phạm. Đôi khi Tiến sĩ Koch, thông qua các cuộc thảo luận mục vụ, đã tiết lộ những mối liên hệ khủng khiếp trong lĩnh vực này. Điều đáng sợ nhất đối với ông ta có vẻ là một nhóm thông linh gồm 20 thành viên làm việc với ma thuật đen. Họ sử dụng nó để thử nghiệm xem liệu họ có thể gây tổn hại về mặt tâm lý cho những người mà họ không thích hoặc thậm chí khiến họ bị bệnh hay không. Ví dụ, một nhà ngoại cảm quyền năng trong vòng tròn này đã nhắm vào một linh mục và tuyên bố: “Tôi sẽ giết ông ta. Ông ấy sẽ bị bệnh.” Trên thực tế, vị linh này sau đó đã bị suy nhược thần kinh, bị bệnh và không thể làm việc trong nhiều tháng. Một vài ví dụ có thể làm rõ sự thật đen tối này về sự đàn áp và bảo vệ bằng ma thuật tâm linh.
V 10 Một phụ nữ trẻ kể rằng cô đã bị một hình ảnh ma quái làm cho sợ hãi vào ban đêm trong nhiều năm. Thông thường, vào khoảng từ 12 giờ đến 1 giờ sáng, cô nhìn thấy một người hàng xóm trong phòng ngủ của mình. Cô gái trẻ luôn thức giấc trong những lần hiện ra này và vô cùng sợ hãi. Cho nên bóng ma này không phải là hình ảnh trong mơ mà là hình ảnh khi đang thức. Người hàng xóm nói trên được coi là một người phụ nữ độc ác trong làng, chuyên sử dụng ma thuật đen và hành hạ người dân. Sau khi nhà phép thuật này qua đời, hiện tượng ám ảnh của cô đã chấm dứt.
V 11 Một phụ nữ đến xin tư vấn mục vụ và phàn nàn về việc bị quấy rối vào ban đêm. Một con mèo đen luôn vào phòng bà vào ban đêm, cào và cắn bà. Khi được hỏi liệu bà có bị các vấn đề về tuần hoàn, bệnh chàm, ngứa da hay các vấn đề liên quan đến tuổi tác như xơ vữa động mạch không, bà trả lời là không. Bà cho biết có lần vết cắn của mèo vẫn còn nhìn thấy được trong vòng 14 ngày. Có lần, chân bà không xuất hiện những vết cào và cắn thông thường của mèo, mà thay vào đó là một vết đỏ hình số ba. Có vẻ như con số này được xăm trên chân bằng một cây kim nhỏ.
Trong các trường hợp tâm linh – ma thuật, trước tiên phải loại bỏ các hiện tượng sai lầm. Chúng ta biết đủ các bệnh tâm thần trong đó tư duy quan hệ đóng vai trò quan trọng. Ví dụ, nhiều người mắc chứng tâm thần phân liệt nói rằng họ đang bị ảnh hưởng hoặc đang bị ma thuật bức hại. Trên thực tế, đó chỉ là triệu chứng của quá trình bệnh lý tâm thần của họ. Nhưng trong lĩnh vực ma thuật tâm linh cũng có những hiện tượng có thật. Mục sư Tiến sĩ Koch có rất nhiều ví dụ từ các nguồn trực tiếp có sẵn để nghiên cứu. Trên thực tế, việc bị đánh đập thường được tìm thấy trong bối cảnh này mà không ai có thể xác định được ai là người gây ra. Trong hầu hết các trường hợp, người ta không thể chấp nhận lời giải thích của bác sĩ tâm thần rằng đây là những trường hợp mắc chứng cuồng loạn nghiêm trọng hoặc rối loạn cương dương (giấc mơ, ảo giác, đơ người lú lẫn) hoặc chứng da nổi những hình vẽ do tâm lý. Lập luận chính chống lại lời giải thích về mặt tâm thần này là quan sát cho thấy những phiền toái đáng sợ này sẽ dừng lại ngay lập tức khi người bị ảnh hưởng đầu hàng cuộc đời mình cho Chúa Giê-xu và đặt mình dưới sự bảo vệ của huyết Chúa Jesus.
Theo quan điểm thuần túy về mặt tâm lý học, sự ngược đãi ma thuật là một vấn đề truyền thông trong lĩnh vực vật chất hóa. Cũng giống như các nhà ngoại cảm mạnh có thể phát ra năng lượng và tạo ra bóng ma con người, các nhà ngoại cảm cũng có thể chuyển đổi năng lượng phát ra thành bóng ma động vật. Theo hướng này, tôi đã thu thập được nhiều trường hợp vật chất hóa ở chó, mèo, ếch, rắn hoặc cơ thể người có đầu động vật. Thực tế là chúng ta chủ yếu đang giải quyết hiện tượng vật chất hóa được thể hiện rõ qua quan sát sau đây. Trong các buổi giao lưu tâm linh, người ta phát hiện ra rằng bất kỳ thương tích nào gây ra cho bóng ma (Phantom) đều sẽ ảnh hưởng đến người đồng cốt (người trung gian). Bất kỳ ai biết về luật lệ của nghề đồng cốt đều biết sự thật này. Giờ đây, người ta có thể thấy rõ rằng những thương tích gây ra cho bóng ma động vật cũng ảnh hưởng đến người trung gian (đồng cốt). Do đó, có thể kết luận rằng sự đàn áp bằng ma thuật chủ yếu là hiện tượng vật chất hóa. Thực tế này là cơ sở cho nhiều phong tục phòng thủ ma thuật đang được lưu truyền trong dân gian. Nếu người bị hành hạ thành công trong việc làm bị thương con ma đang quấy nhiễu mình, thì anh ta đã chiến thắng. Có một ví dụ: phép thuật tấn công tâm linh và phép thuật phòng thủ dựa trên những vật chất hóa.
V 12 Ở một khu vực mà ma thuật đen được sử dụng rộng rãi, đã có báo cáo sau đây. Khi đứa trẻ chào đời, một con mèo đen lớn thường đi lang thang khắp nhà. Con vật này rất bướng bỉnh. Không thể đuổi nó đi được. Cuối cùng, người ta ném một chiếc rìu vào nó. Con vật bị thương ở chân. Ngày hôm sau, người ta phát hiện một bà lão trong khu phố bị thương ở chân. Người phụ nữ này được cả làng biết đến là người có tài về ma thuật đen. Vài ngày sau vụ việc, mụ phù thủy này đã trả thù. Cô đến thăm người phụ nữ vừa mới sinh con và xoa đầu đứa trẻ trong khi lẩm bẩm. Từ đó trở đi, đứa trẻ khóc không ngừng và không thể dỗ được. Sau đó người ta phát hiện ra rằng đứa trẻ bị mất trí nhớ nghiêm trọng.
Trong hồ sơ của Tiến sĩ Koch có khoảng bốn mươi ví dụ về mèo như vậy, hầu hết đều cho thấy cùng một vấn đề. Trong hầu hết các trường hợp, nguyên nhân là do có người liên quan đến ma ám trong nhà hoặc chuồng ngựa. Đây là những điều mà chúng ta biết rất ít hoặc không biết gì cả trong các trường đại học của chúng ta, nơi vẫn còn chịu sự chi phối của chủ nghĩa duy lý. Người dân hiểu biết hơn nhiều về các phong tục ma thuật so với các học giả của chúng ta, là những kẻ vẫn thường theo thuyết lừa đảo và dối trá.
Trong việc chăm sóc mục vụ, điều quan trọng là người bị ma thuật tấn công phải đặt cuộc sống mình dưới sự bảo vệ của Chúa Giê-xu. Đây là sự giúp đỡ khả thi và hiệu quả duy nhất dành cho người theo Chúa. Người cơ đốc không được sử dụng phép thuật phòng thủ. Sứ đồ Phao-lô nói rằng vũ khí của tinh thần hiệp sĩ của chúng ta là vũ khí thuộc về Thánh linh chứ không phải xác thịt.
- Những hiện tượng siêu hình
Trong nhóm này, một phần vấn đề về hồn ma và sự ám ảnh khách quan liên quan đến thuyết tâm linh sẽ được giải quyết. Hiện tượng ma ám rất đa dạng. Giống như mọi hiện tượng huyền bí, có hiện tượng thật và hiện tượng giả. Hiện tượng ma quỷ thực sự bao gồm những trường hợp có thể được xác minh và quan sát một cách khách quan qua nhiều thế hệ. Một ví dụ như thế này có thể làm sáng tỏ vấn đề.
V 13 Một học giả, con trai của một mục sư Tin Lành, đã thuật lại cho Tiến sĩ Koch trải nghiệm sau đây ở nhà bố mẹ mình. Một ngày nọ, người cha được chuyển đến một thị trấn nhỏ. Sau khi chuyển đến căn hộ mới, một đêm nọ gia đình nhận thấy hiện tượng ma quái. Họ nghe thấy tiếng bước chân từ tầng hầm lên gác xép và ngược lại, cũng như từ hành lang vào một căn phòng. Khi mới nhìn thấy, người ta nghĩ rằng những bậc thang này là của một tên trộm. Mọi cuộc điều tra cẩn thận đều không mang lại manh mối nào về nguyên nhân gây ra hiện tượng ma ám này. Khi những người con trai lớn nhất của nhà mục sư này đã là sinh viên, họ đã nghĩ ra một kế hoạch để tiếp cận kẻ gây rối ban đêm này. Vào ban đêm, các sinh viên ngồi quanh một chiếc bàn cùng cha mẹ, nắm tay lại với nhau thành vòng tròn và cố gắng liên lạc với hồn ma này bằng cách xoay bàn cầu cơ. Đầu tiên họ hỏi: “Ngươi có phải là một linh hồn không thể tìm được sự nghỉ ngơi không? ” Câu hỏi ngay lập tức được trả lời bằng tiếng gõ mạnh xuống bàn. Tiếp theo là một trò chơi hỏi đáp thú vị. Người đàn ông vô hình mà họ đang nói chuyện nói rằng ông là một linh mục Công giáo và đã sống trong ngôi nhà này 200 năm trước. Ông đã giết người quản gia của mình và chôn bà trong tầng hầm. Kể từ đó, ông phải quay trở lại hiện trường vụ án của mình. Khi được hỏi ông ta đã giết người quản gia ở phòng nào, một hiện tượng kỳ lạ đã xảy ra. Chiếc bàn trượt qua phòng đến tận cửa và đập vào cửa mạnh đến nỗi làm hỏng gỗ. Khi một học sinh mở cửa, chiếc bàn lao vào phòng bên cạnh và rơi xuống một góc. Chiếc bàn đập vào khung giường gỗ sồi, để lại vết lõm sâu không bao giờ lành lại. Khi được hỏi liệu họ có thể làm gì đó cho ông không, ông trả lời: “Được, hãy cầu nguyện!” Khi vợ của mục sư cầu nguyện cho linh hồn bất an, ngôi nhà ma ám đã được bình yên trong vài năm. Một trong những người con trai, Tiến sĩ X., người kể lại câu chuyện cho Tiến sĩ Koch giải thích rằng ông đã điều tra và phát hiện ra điều sau đây. 200 năm trước, có một linh mục Công giáo thực sự đã sống ở nhà xứ. Bóng ma đã được nhìn thấy qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, các gia đình giáo xứ sắp chuyển đi đã giữ im lặng về những trải nghiệm của họ trong ngôi nhà này để không làm gia đình giáo xứ mới chuyển đến sợ hãi. Điều thú vị là sau khi gia đình ông chuyển đi, hiện tượng ám ảnh lại tiếp tục xảy ra với người kế nhiệm ông.
Có nhiều cách giải thích khác nhau về hiện tượng ma quỷ hiện về. Từ thế giới cơ đốc giáo xuất hiện quan điểm cho rằng chúng ta không nên tưởng tượng thế giới của người chết theo nghĩa không gian, mà chỉ nên coi đó là một trạng thái, một cách tồn tại. Có những khoảnh khắc mà thế giới của người chết bao quanh chúng ta trở nên trong suốt, ví dụ như khi chúng ta chết hoặc ở những người có khả năng ngoại cảm. Với tất cả những giả thuyết này, chúng ta vẫn còn rất mơ hồ, vì chúng ta không có đoạn Kinh thánh rõ ràng nào giải thích về hiện tượng ma quỷ hiện về.
V 14 Khi một nhà truyền giáo được chuyển đến một trạm khác, cả vợ ông và chính ông đều chứng kiến những hiện tượng ma quái kỳ lạ trong nhà. Họ liên tục nghe thấy tiếng bước chân trong nhà vào ban đêm. Từ Thứ Bảy Phục Sinh đến Chủ Nhật Phục Sinh, họ nghe thấy tiếng động và tiếng đập, như thể tất cả đồ đạc đang bị đập vào nhau. Họ nghĩ đó là kẻ trộm và đi điều tra. Nhưng không có gì thay đổi trong phòng. Sau đó, tiếng gõ cửa vẫn còn vang lên. Những vị khách không được khai sáng cũng đã quan sát thấy hiện tượng ma quái này. Nhiều lần, người lạ bị quấy rối cả ban ngày lẫn ban đêm. Nhà truyền giáo và vợ ông đã cầu nguyện liên tục để vượt qua những lần hiện tượng này. Cuối cùng, ông đã dám ra lệnh cho kẻ gây rối vô hình nhân danh Chúa Jesus. Một buổi sáng lúc chạng vạng, họ nghe thấy tiếng đập vỡ tất cả các viên gạch. Sau đó có tiếng động như thể hàng trăm con chim bồ câu đang bay đi. Gia đình của nhà truyền giáo có ấn tượng rằng bóng ma đã kết thúc. Và sự việc đã diễn ra như vậy. kể từ thời điểm đó ngôi nhà được giải phóng. Trong khi điều tra những nguyên nhân có thể xảy ra, nhà thuyết giáo biết được rằng một nhà tâm linh đã sống trong ngôi nhà này nhiều năm. Hơn nữa, một vụ tự tử đã xảy ra trong ngôi nhà này vài năm trước khi mục sư chuyển đến.
Bóng ma khách quan có nguồn gốc từ các hoạt động huyền bí của tổ tiên. Bóng ma khách quan xuất hiện dai dẳng hơn bóng ma cá nhân, nhưng nó cũng biến mất ngay lập tức khi những người ở đó hoàn toàn đầu hàng Chúa và đặt mình dưới sự bảo vệ của Ngài. Đây là dấu hiệu cho thấy không có quá trình nào có thể diễn giải được bằng khoa học diễn ra ở đây, nhưng lại có bối cảnh siêu hình.
- Những Hiện Tượng Sùng Bái
Các hình thức của thuyết duy linh có thể được tìm thấy, ví dụ, ở Thụy Sĩ, trong nhà nghỉ tâm linh ở Zurich. Ở đó, trong khuôn khổ của nhà nghỉ tâm linh, các buổi lễ được tổ chức vào mỗi Chủ Nhật với các bài hát, lời cầu nguyện và bài giảng. Bài giảng này được cho là do một linh hồn từ thế giới khác truyền đạt thông qua trung giang (đồng cốt, phương tiện truyền thông.) Các bài giảng được ghi âm lại và xuất bản hàng tuần. Chúng chứa đựng những ý tưởng lý tưởng, ý tưởng đạo đức và ý tưởng cơ đốc giáo. Về thông điệp cốt lõi, chúng không ngang bằng với Tân Ước. Bản chất cốt lõi của thông điệp cơ đốc giáo, rằng con người là tội nhân khốn khổ, lạc lối trước mặt Chúa và cần được cứu rỗi thông qua Chúa Jesus Christ, rõ ràng đã bị bỏ qua trong những bài giảng về tâm linh này. Ngoài nhận xét quan trọng này, cần phải nói thêm rằng những người theo thuyết tâm linh đã diễn giải lại các sự kiện trong Tân Ước. Những câu chuyện về sự phục sinh, bao gồm sự phục sinh của Chúa Jesus và sự xuất hiện của Moses và Elijah trên Núi Biến hình, được hiểu theo cách thông linh. Hơn nữa, người ta còn dùng cách giải thích mang tính gắng gượng để tránh những từ ngữ trong Kinh thánh cấm tiếp xúc với người chết. Như Mục sư Tiến sĩ Koch đã từng trích dẫn Phục truyền luật lệ ký 18:10-12 cho một người theo phong trào duy linh, chỉ ra rằng việc đi hỏi người chết là điều ghê tởm đối với Chúa, và người theo phong trào duy linh giải thích: “Chúng tôi không gọi người chết, mà gọi những linh hồn sống từ cõi chết.” Toàn bộ thuyết duy linh đều gây hiểu lầm cho những người không có tầm nhìn rõ ràng vì những phụ kiện của Cơ đốc giáo. Chủ nghĩa duy linh với hình thức sùng đạo chủ yếu xuất hiện ở các nước nói tiếng Anh. Anh và Scotland có hơn một trăm nhà thờ theo thuyết tâm linh. Sau bài giảng tại All Saints Hall ở London, Tiến sĩ Koch liên lạc với một người theo thuyết tâm linh trước đây. Ông này đã tường thuật về cuộc đời mình và đồng ý cho phép được đăng tải.
V 15 Alfred Millen là một diễn viên tại Nhà hát Garrick ở London và đôi khi tham dự các buổi lễ tại nhà thờ tâm linh ở khu vực địa phương của mình. Thiết kế tương tự như buổi lễ ở nhà thờ Thiên chúa giáo. Người ta hát những bài hát Cơ đốc giáo và đọc những đoạn Kinh thánh. Thay vì rao giảng, một người phụ nữ đóng vai trò là thầy bói và nhà tiên tri. Trong lần viếng thăm đầu tiên, “nữ tiên tri” này đã chỉ vào Millen và giải thích: “Ông có biết mình có năng lực rất lớn không? ” Millen kinh ngạc không trả lời. Sau đó, người phụ nữ này bắt đầu giải thích về quá khứ và hiện tại của ông, khiến Millen hoảng sợ. Người trung gian (lên đồng) này biết rõ những bí mật sâu kín nhất của ông. Bà có thể kể cho ông nghe về những trải nghiệm của mình trên nhiều chiến trường khác nhau. Nhìn thấy ánh mắt kinh ngạc của Millen, bà giải thích, “Ông có cùng khả năng với tôi. Họ chỉ không biết điều đó thôi. Tôi cũng cảm thấy như vậy. Tôi cũng không biết mình có thể trở thành nhà ngoại cảm (medium, đồng cốt, trung gian) cho đến khi một nhà ngoại cảm khác tiết lộ điều đó với tôi.” Sau buổi lễ, Millen ở lại để trò chuyện riêng với nhà ngoại cảm. Ông ấy hỏi thông tin về cách trở thành một nhà ngoại cảm. Người phụ nữ trả lời: “Hãy tham gia một vòng tròn tâm linh tốt, rồi mọi thứ sẽ tự lo liệu”. Khi Millen hỏi có thể tìm thấy một vòng tròn như thế ở đâu, ông ta được trả lời: “Hãy ở ngay đây, có một vòng tròn như thế này sau mỗi buổi lễ”.
Là người mới đến, Miller đã được giới thiệu đến buổi trò chuyện tâm linh này và trải nghiệm điều bất ngờ thứ hai ở đó. Ông được yêu cầu tập trung vào màu trắng và màu nhạt và cố gắng không nghĩ về bất cứ điều gì. Miller lúc này đã trở thành một bậc thầy, một đệ tử của một phong trào huyền bí. Hơi thở của ông ngày càng nặng hơn và nặng hơn. Ông cảm thấy như thể linh hồn mình muốn rời khỏi thể xác. Cùng lúc đó, anh cảm thấy một sức mạnh ngoài hành tinh đang tiến lại gần mình. Ông ta cảm thấy bất an nên đột nhiên hét lên: “Dừng lại, tôi không làm thế này nữa”. Ngay lập tức, tâm trí ông ta lại trở nên sáng suốt. Ông ấy đã lại kiểm soát được suy nghĩ và cảm xúc của mình. Ông nghe những người tham gia vòng tròn khác nói: “Thật đáng tiếc, điều này có thể đã thành công rực rỡ”. Vào lúc đó, Millen nghe thấy các người trung gian (lên đồng) khác nói bằng tiếng nước ngoài mà không ai hiểu hoặc có thể phiên dịch.
Trong những tuần tiếp theo, Millen đã quen thuộc với các hoạt động truyền thông linh. Ông đã phát triển những khả năng sau đây trong trạng thái xuất thần và bán xuất thần:
Ông có thể nói được nhiều ngoại ngữ trong trạng thái nửa xuất thần, tương tự như nói tiếng lạ. Nhưng không có phiên dịch viên nào có thể dịch được các ngôn ngữ đó. Hơn nữa, trong trạng thái nửa xuất thần, ông có thể ngay lập tức nhận ra và chữa lành mọi căn bệnh mà không cần bất kỳ kiến thức y khoa nào. Nếu một người bệnh đứng trước mặt anh ta, anh ta sẽ đặt tay lên phần cơ thể bị bệnh. Sau đó, bệnh nhân cảm thấy ấm áp dễ chịu. Ông cảm thấy như có một luồng điện chạy qua cơ thể mình. Chẩn đoán chính xác 100% mà không cần phải hỏi bệnh nhân trước.
Trong trạng thái xuất thần hoàn toàn, Millen đã làm chủ được cái gọi là chuyến du ngoạn của tâm hồn. Đây là quá trình phân tách trong đó linh hồn hoặc một phần ý thức dường như rời khỏi cơ thể. Người đi du ngoạn có thể khám phá những điều ẩn giấu và xa xôi. Như thể ông ấy nhìn thấu vật chất vậy. Người Anh còn gọi đây là nhận thức ngoại cảm. Người Pháp gọi quá trình này là thấu thị, người Đức gọi là thấu thị. Tuy nhiên, sự du ngoạn của linh hồn chỉ là một phần của khả năng thấu thị.
Làm sao Millen lại từ bỏ mọi hoạt động truyền thông và trở thành môn đồ của Chúa Jesus? Như thường thấy trong lịch sử con cái Chúa, Chúa đã gián tiếp sử dụng vợ của Millen. Cô đã tin vào Chúa Jesus tại một sự kiện truyền giáo. Trong quá trình cải đạo này, bà cũng từ bỏ mọi thuyết tâm linh của chồng mình. Bà kết bạn với một số người và thành lập một nhóm cầu nguyện dành riêng cho chồng mình. Họ cầu nguyện cho ông trong khoảng một năm. Sau đó, những khó khăn nghiêm trọng bắt đầu nảy sinh trong cuộc sống của ông. Một trận chiến đã nổ ra ở thế giới vô hình. Những linh của vực sâu mà Millen phục vụ đã chống lại sức mạnh của lời cầu nguyện. Nhưng chúng vẫn thua cuộc. Đó là kinh nghiệm tuyệt vời mà chúng ta có với tư cách là những Cơ đốc nhân. Satan và chủ nhân của hắn phải chạy trốn khi chúng ta đứng dưới cây thập tự giá. Những người cầu nguyện cảm nhận được sự khởi đầu của cuộc xung đột và cầu nguyện càng trung thành hơn. Một ngày nọ, Millen đến gặp bác sĩ vì bị chàm ở chân. Ông, người đã có thể giúp đỡ nhiều người, lại không thể giúp được chính mình. Đây là một quan sát phổ biến và cũng là sự thừa nhận hàng ngày của những người trung gian (đồng cốt, giới truyền thông) rằng họ không thể tự giúp mình. Millen đã đến đúng nơi để điều trị căn bệnh ngoài da của mình. Bác sĩ là một người tin Chúa sùng đạo. Là một bác sĩ da liễu giàu kinh nghiệm, ông biết rằng nhiều bệnh về da là do dị ứng và thường có liên quan đến bệnh tâm thần. Một ngày nọ, bác sĩ hỏi bệnh nhân của mình: “Ông có thái độ thế nào đối với Đấng Christ? Ông đã bao giờ cầu nguyện để được chữa lành chưa? ” Millen đã rất sốc. Ông ấy đã đi đâu? Nhưng bác sĩ vẫn không bỏ cuộc. Cuối cùng, bác sĩ da liễu trả lời: “Tôi chỉ biết một lời cầu nguyện, tôi đã học một lần ở trường.” Bác sĩ đã đọc cho anh ta nghe. Sau khi Millen nói xong, bác sĩ hỏi: “Bây giờ lại hỏi tiếp, nhưng tập trung hơn!” Và hãy nhớ đến Chúa Giê-xu.” Millen vâng lời như một học trò. Đúng lúc đó, chuyện đó đã xảy ra. Giờ phút Đa-mách đã đến với ông. Millen đã nhận ra tội lỗi khủng khiếp của mình. Ông hầu như không thể chờ đợi. Vừa khi về đến nhà, ông quỳ xuống ở nhà và kêu cầu Chúa. Toàn bộ quá khứ của anh hiện ra trước mắt, cuộc sống tội lỗi và giáo phái ma quỷ tàn khốc trong nhà thờ duy linh. Ông cầu xin sự tha thứ và lòng thương xót. Và Chúa nghiêng mình về phía ông. Đám đông người thờ phượng phía sau lưng ông, mà Millen chưa từng biết đến cho đến lúc đó, họ đã vui mừng và tôn vinh Chúa. Một người theo thuyết duy linh và đồng thời là một nhà tâm linh, bị trói bằng hàng ngàn sợi dây thừng, đã được giải thoát bởi Đấng chiến thắng trên đồi Golgotha.
Millen ngay lập tức cắt đứt mọi mối quan hệ với thuyết tâm linh. Chỉ trong một giờ, ông đã nhận ra một cách rõ ràng đến đáng sợ rằng các nhà thờ duy linh đang bị ma quỷ kiểm soát và thống trị. Ông bắt đầu cảnh báo tất cả những người quen biết của mình về các nhà thờ tâm linh. Sau đó, ông cũng thấy việc tiếp cận tất cả những người mà trước đây ông đã có thể giúp đỡ với tư cách là người chữa bệnh tâm linh cũng rất quan trọng. Ông đã công bố những trải nghiệm của mình với tư cách là một nhà ngoại cảm và cảnh báo chống lại mọi hình thức duy tâm thế tục và tôn giáo, mặc dù ông phải lường trước những phản ứng dữ dội. Biết rằng mình được Chúa Giêsu bảo vệ, ông không để ý đến mọi sự thù địch và đe dọa. Millen đã nói: “Người nào kính sợ Chúa thì không còn phải sợ loài người nữa. Bất kỳ ai đã phục vụ Satan trong thời gian dài và được giải thoát qua Chúa Giê-xu phải dùng hết sức lực của mình để luôn sẵn sàng phục vụ Chúa Giêsu ở mọi nơi.” Chúa Giêsu phán trong Luca 10:19: “Này, Ta đã ban cho các ngươi quyền năng trên mọi quyền năng của kẻ thù, và chẳng có gì làm hại các ngươi được.” Đây là dấu hiệu đáng buồn cho thấy sự thiếu khả năng phân biệt các linh, ngay cả trong các cộng đồng Cơ đốc giáo và tôn giáo, người ta vẫn không thể phân biệt được giữa thần khí và tâm linh, tức là tâm linh và ma quỷ. Chúng ta không cần đến những linh bất lực, mà chỉ cần Lời Chúa, là Đấng mang đến Đức Thánh Linh. Chúng ta cũng không cần những lời truyền bá tôn giáo và sản phẩm của các nhà văn tâm linh như Jakob Lorber, Madam Marguerite và những người khác, mà chúng ta chỉ cần Thần chân lý dẫn dắt chúng ta đến với Lời Chúa. Sự phát triển của chủ nghĩa duy linh thành một giáo phái tôn giáo có lẽ là hình thức nguy hiểm nhất của phong trào này, vì tâm trí ngây thơ có thể bị che mắt và lừa dối bởi những cạm bẫy của cơ đốc giáo. Điều này khiến chúng ta gặp phải vấn đề trong việc đánh giá các hiện tượng tâm linh.
- Nhận định về những hiện Tượng Thông Linh
Trước tiên, hãy để khoa học trung lập lên tiếng. Trong y học, đặc biệt là trong tâm thần học, chúng ta biết đến hiện tượng phân liệt phát sinh từ việc sử dụng năng lực ngoại cảm trong thời gian dài. Thuật ngữ tâm thần giao cách cảm (tâm thần trung gian, mediumistic psychosis) được đặt ra cho hiện tượng này. Tâm lý học cũng nêu rõ cách đánh giá các thí nghiệm về ngoại cảm (thí nghiệm trung gian, mediumistic experiments). Sau đây là lời cảnh báo của một nhà tâm lý học. Giáo sư Bender từ Đại học Freiburg viết trong cuốn sách nhỏ của mình “Tâm lý học cận tử – Kết quả và vấn đề” (‘Parapsychology – Its Results and Problems’): “Hàng ngàn người đặt hy vọng vào những lời tuyên bố lừa dối của các hoạt động tâm linh, tìm kiếm lời khuyên từ thế giới bên kia và trở nên phụ thuộc vào nó. Tôi đã gặp một số bệnh nhân bị rối loạn tâm lý nghiêm trọng do lạm dụng những phương pháp như vậy. Họ trở thành những người có tính cách phân liệt. Những linh hồn mà họ gọi đến làm họ bối rối. Bất kỳ ai cố gắng hiểu lời hứa về thế giới bên kia thông qua mê tín đều có nguy cơ trở thành nạn nhân của mặt tối trong tâm lý của mình.”
Sự phân loại về thuyết thông linh trong Kinh thánh được đưa ra với một số chỉ dẫn rõ ràng từ Kinh thánh. Trước khi vào đất Ca-na-an, dân Y-sơ-ra-ên đã nhận được lời cảnh báo của Đức Chúa Trời: “10 Ở giữa ngươi chớ nên có ai đem con trai hay con gái mình ngang qua lửa, chớ nên có thầy bói, hoặc kẻ hay xem sao mà bói, thầy phù thủy, thầy pháp, 11 kẻ hay dùng ếm chú, người đi hỏi đồng cốt, kẻ thuật số, hay là kẻ đi cầu vong; 12 vì Đức Giê-hô-va lấy làm gớm ghiếc kẻ làm các việc ấy, và vì các sự gớm ghiếc ấy, nên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đuổi các dân tộc đó khỏi trước mặt ngươi.” (Phục truyền luật lệ ký 18:10-12)
Những gì đúng trong thời kỳ Môi-se vẫn đúng trong thời kỳ các vị vua. Sau-lơ đã cấm mọi hình thức bói toán và thông linh cho đến khi, sau khi ông bội giáo với Đức Chúa Trời hằng sống, chính ông đã hiến mình cho những việc thông linh (1 Samuel 28). Ông đã nhận được bản án tử hình từ một nhà ngoại cảm ở Endor (bà bóng). Các tiên tri đưa ra sự phán quyết không khác gì thời Môi-se và thời các vua. Ê-sai đã tự bảo vệ mình (Ê-sai 8:19) chống lại các thầy bói và đồng bóng bằng mệnh lệnh:: “Nếu có ai bảo các ngươi: Hãy cầu hỏi đồng bóng và thầy bói, là kẻ nói ríu rít líu lo, thì hãy đáp rằng: Một dân tộc há chẳng nên cầu hỏi Đức Chúa Trời mình sao? Há lại vì người sống mà hỏi kẻ chết sao? ” Thuyết duy linh là một sự phạm thượng chống lại thẩm quyền của Đức Chúa Trời, là sự vi phạm điều răn thứ nhất. Những người theo thuyết tâm linh từ bỏ Chúa trời và chạy theo những ngọn lửa ma trơi và những linh hồn lấp lánh, khiến họ lạc lối. Trong công tác mục vụ, cần phải phân biệt rõ ràng giữa các giải thích khoa học về hiện tượng tâm linh và các mối quan hệ tâm linh. Vấn đề tâm linh, giống như bất kỳ vấn đề huyền bí nào khác, có hai lớp. Nguyên tắc cơ bản của việc điều tra những hiện tượng này là về sự làm sáng tỏ mang tính khoa học. Nguyên tắc chính thức của cuộc điều tra là về việc phân loại những hiện tượng này trong lĩnh vực căng thẳng tâm linh của Kinh thánh. Đánh giá về mặt đạo đức và Kinh thánh đối với hiện tượng tâm linh hoàn toàn độc lập với cách giải thích khoa học. Ngay cả khi tất cả các hiện tượng tâm linh đều có thể được giải thích theo thuyết vật linh, tức là thông qua tác động của các lực lượng tâm linh tiềm thức, thì vấn đề tâm linh và mục vụ vẫn không bị ảnh hưởng. Nghiên cứu sâu hơn về tâm lý học không thể buộc mục vụ phải lùi bước ở đây, vì phạm vi tâm linh của những câu hỏi này nằm ở một chiều không gian khác.
Theo thuật ngữ Kinh thánh và tâm linh, hiện nay trong công tác chăm sóc mục vụ, người ta thấy rõ rằng các hoạt động tâm linh chính là điểm xâm nhập của các thế lực đen tối. Ở đây lời cảnh báo của sứ đồ Phao-lô có tầm quan trọng đặc biệt: Ê-phê-sô 6:12 “12 Vì chúng ta đánh trận, chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy.” Quan sát mục vụ xác nhận thực tế rằng hoạt động tâm linh gây tổn hại nghiêm trọng đến đức tin cơ đốc. Niềm tin vào Đức Phật, Mohammed hay bất kỳ vị giáo chủ vĩ đại nào khác không bị ảnh hưởng bởi hoạt động tâm linh. Điều này cũng tiết lộ bối cảnh. Chủ nghĩa duy linh khiến con người trở nên miễn nhiễm với Thánh Linh (pneuma), nghĩa là nó làm giảm khả năng làm việc với Chúa Thánh Linh của con người. Không nên hiểu lầm điều này. Nó không gây hại cho đời sống tôn giáo nói chung; ngược lại, bản thân chủ nghĩa duy linh phần lớn là một phong trào “tôn giáo”. Nói một cách đại khái, điều này có nghĩa là: Ma quỷ không lấy đi “lòng sùng đạo” của chúng ta, nhưng nó muốn ngăn cản chúng ta trở thành môn đồ của Chúa Giêsu bằng mọi giá.
Việc quan sát thêm về việc chăm sóc mục vụ cho thấy trong rất nhiều trường hợp, các rối loạn tâm thần phát triển từ hoạt động tâm linh không cần phải thảo luận thêm.
Để cung cấp cho những người làm việc cho Vương quốc Đức Chúa Trời một số hướng dẫn về việc chăm sóc mục vụ, phương pháp điều trị mục vụ cho những người bị ma thuật ám ảnh sẽ được trình bày dưới dạng một bản phác thảo.
Sự giải thoát khỏi bùa chú của thuyết duy linh hay tâm linh chỉ có thể đạt được thông qua Chúa Giê-xu. Bất kỳ sự trợ giúp y tế hoặc tâm lý nào cũng không thể giải thích được bản chất tâm linh của hiện tượng này. Qua hành động của Chúa Giê-xu trên thập giá và vào buổi sáng lễ Phục sinh, việc chăm sóc mục vụ cho những người bị gánh nặng bởi ma thuật là một sự chăm sóc mục vụ chiến thắng mà không sợ hãi. Satan và toàn bộ bè lũ của hắn là đội quân bại trận. Mọi thế lực huyền bí đều bị Chúa Jesus vô hiệu hóa. Đây là bài ca chiến thắng của Tân Ước: “Ngài đã truất bỏ các quyền cai trị cùng các thế lực, dùng thập tự giá chiến thắng chúng nó, và nộp ra tỏ tường giữa thiên hạ.” (Cô-lô-se 2:15). Những gì mà Hội Thánh Cựu Ước đã hát: “Trong trại người công bình có tiếng vui mừng cứu rỗi” (Thi thiên 118:15), đã được ứng nghiệm trong Đấng Christ. Sứ đồ Phao-lô vui reo: “Nhưng, tạ ơn Đức Chúa Trời đã cho chúng ta sự thắng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.” (1Cô-rinh-tô 15:57). Sự cứu chuộc và chiến thắng của Chúa Jesus là nền tảng cho sự chăm sóc mục vụ đầy hy vọng và giúp đỡ cho những người bị cấm đoán theo tà giáo. Đặc biệt, những điểm sau đây phải được lưu ý trong quá trình tư vấn mục vụ này:
- a) Bất cứ ai muốn được tự do thì phải phó thác hoàn toàn cho Chúa Giêsu. Không có giải pháp tạm thời hay quyết định nửa vời nào ở đây. Bạn không thể phục vụ hai chủ.
- b) Trong hầu hết các trường hợp, bị cáo không thể thoát tội nếu không có lời thú tội chung. Ngược lại, trong Tân Ước, việc xưng tội là vấn đề tự nguyện. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy rằng nếu không có cuộc trò chuyện mục vụ kỹ lưỡng thì không ai được giải thoát. Gia-cơ hẳn đã có những trải nghiệm như vậy vì ông đã khuyên rằng: “hãy xưng tội cùng nhau” (Gia-cơ 5:16).
- c) Có những trường hợp đặc biệt khó khăn mà cần phải có lời cầu nguyện cắt đứt đoạn tuyệt. Hoạt động huyền bí thường là một hợp đồng vô thức với bóng tối. Hợp đồng này được chấm dứt bằng lời cầu nguyện cắt đứt đoạn tuyệt trước sự chứng kiến của người chăm sóc linh hồn, người làm chứng tại thời điểm này. Việc chấm dứt này chỉ xảy ra một lần. Nó sẽ không được lặp lại. Sự từ bỏ này có thể được diễn đạt bằng những lời sau đây:
“Nhân danh Chúa Jesus Christ, tôi từ bỏ mọi việc làm đen tối và hiến dâng bản thân mình cho Chúa Jesus Christ, là Chúa và Cứu Chúa của tôi, cho đến muôn đời.” Tất nhiên, cách diễn đạt không quan trọng; nó cũng có thể được diễn đạt theo cách khác. Không có công thức bí thuật nào trong việc chăm sóc mục vụ.
- d) Trong một số trường hợp nhất định, người chăm sóc mục vụ cũng có thể cân nhắc việc ra lệnh nhân danh Chúa Jesus. Tuy nhiên, thường cần phải có nhiều sự hiểu biết chuyên môn và khả năng phân định để đảm bảo rằng, không có điều vô lý nào được thực hiện với việc truyền lệnh. Sẽ hoàn toàn sai lầm khi đưa ra mệnh lệnh trong trường hợp người bị bệnh tâm thần, tức là trong trường hợp y tế. Đây chính là nơi có thể xảy ra những sai lầm nghiêm trọng trong việc chăm sóc mục vụ. Tốt hơn hết là nên kiềm chế hơn là ra lệnh trong những trường hợp không rõ ràng. Bất cứ ai ra lệnh phải là môn đồ của Chúa Jesus và có ý thức đặt mình dưới sự bảo vệ của Chúa Jesus trong đức tin. Nếu không, người đó có thể gặp phải những thách thức nghiêm trọng. Đối với những người có bệnh lý huyền bí, lời cầu nguyện thường không được thực hiện bằng cách đặt tay. Chúa Giêsu chỉ đặt tay trên người bệnh; Ngài ra lệnh cho những người bị quỷ ám.
- e) Người được giải thoát phải siêng năng sử dụng các phương tiện ân điển: Lời Chúa, sự thông công với các tín đồ, việc bẻ bánh, sự cầu nguyện (Công vụ 2:42). Nếu những cám dỗ quay trở lại sau khi được chăm sóc mục vụ, người được giải cứu phải đặt mình dưới sự bảo vệ của huyết Chúa Jesus hằng ngày hoặc hằng giờ. Đây không phải là chủ nghĩa thần bí về máu, mà là sự thật trong Kinh thánh. Bạn không thể chống lại bóng tối bằng sự ủy mị. Nếu những cám dỗ không giảm bớt, thì người được giải cứu cũng có thể ra lệnh nhân danh Chúa Jesus. Việc những người thế gian truyền lệnh là hoàn toàn vô nghĩa, và trong một số trường hợp thậm chí còn nguy hiểm, chẳng hạn như trong Công vụ. 19.13 cho thấy. Việc những Cơ Đốc nhân truyền lệnh không có lòng sùng kính với Chúa Jesus là không có hiệu lực. Vì các tà linh và thế lực bị trục xuất thích trở về nơi ở cũ của chúng (Lu-ca 11:24-26), nên người được giải cứu phải luôn cảnh giác.
Để bảo vệ bản thân, chúng ta cần phải có áo giáp thuộc linh (Ê-phê-sô 6:10-18). Vũ khí quan trọng nhất là khiên đức tin và gươm của Thánh Linh, tức là Lời Chúa. Những người theo thuyết tâm linh có lý do để cảnh giác với mọi trải nghiệm và sự hiện thấy. Những tà linh quay lại chỉ lẻn vào dưới hình dạng ngụy trang ngoan đạo. Sự giả vờ tôn giáo của chúng thường không được nhận ra và nhìn thấu ngay lập tức.
- f) Có những trường hợp khó khăn mà việc chăm sóc mục vụ không dẫn đến sự giải thoát hoàn toàn ngay lập tức. Có hai lựa chọn để được trợ giúp đặc biệt. Trong hầu hết các trường hợp, cần thành lập một nhóm cầu nguyện nhỏ gồm hai hoặc ba tín đồ, họp ít nhất hai lần một tuần để cầu nguyện và cầu thay. Người có gánh nặng sẽ được đưa vào vòng tròn này. Sự cầu thay tiếp tục cho đến khi sự giải cứu xảy ra. Một nhóm cầu nguyện nhỏ có thẩm quyền tâm linh lớn hơn cá nhân người chăm sóc thuộc linh. Lời hứa dành cho nhóm là: “Quả thật, ta lại nói cùng các ngươi, nếu hai người trong các ngươi thuận nhau ở dưới đất mà cầu xin không cứ việc chi, thì Cha ta ở trên trời sẽ cho họ.” (Ma-thi-ơ 18:19)
Hình thức giúp đỡ đặc biệt thứ hai là cầu nguyện và kiêng ăn. Chúa Giê-su phán trong Ma-thi-ơ 17:21 (BDM2002): “Những loài quỷ này chỉ trừ được bằng sự cầu nguyện và kiêng ăn” Do đó, nhóm cầu nguyện nhỏ có thể thực hiện những ngày cầu nguyện và kiêng ăn cùng với người đang bị gánh nặng hoặc trong trường hợp này là không có người đó tham gia cùng. Tuy nhiên, cảm giác về công trạng hay thành tích giả tạo không được phép len lỏi vào tâm trí của những người cầu nguyện. Bất kỳ ai tham gia chiến đấu ở tuyến đầu chống lại thế lực bóng tối đều phải được trang bị vũ khí để chống lại những đòn tấn công xảo quyệt của kẻ thù. Nhiều người cầu nguyện và nhiều người làm việc cho Vương quốc Đức Chúa Trời đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh như vậy. Đôi khi, thông qua con đường kiêu ngạo về mặt tâm linh, nó dẫn đến lịch sử tội lỗi nghiêm trọng.
- g) Cần lưu ý rằng trong trường hợp có triệu chứng tâm thần, cũng nên tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa. Người chăm sóc linh hồn trong lĩnh vực này không được trở thành một bác sĩ tâm thần lang băm.
Sau nhiều báo cáo về sự vướng mắc vào tâm linh, ba ví dụ về sự giải thoát để kết thúc.
V 16 Một cô gái trẻ nhận lời mời của một người bạn tham gia vào một nhóm tâm linh. Lúc đầu, vòng tròn này mang lại cho cô sự thỏa mãn, cho đến khi cô ngày càng nhận thấy những thay đổi về mặt tâm lý ở bản thân. Cô bị trầm cảm và phải đi khám bác sĩ thần kinh. Trong quá trình điều trị, cô đã được đưa vào bệnh viện tâm thần. Do hạn chế về thời gian rảnh rỗi, bệnh nhân không thể tham gia các buổi trị liệu tâm linh nữa. Tình trạng của cô ấy đã được cải thiện. Sự chăm sóc tận tình của vị linh mục tại bệnh viện đã góp phần hoàn toàn vào quá trình hồi phục của ông. Người phụ nữ đã mở lòng mình đón nhận sự ảnh hưởng của Lời Chúa. Cô đã học cách tin vào Đấng Christ và quyết định đi theo Ngài. Sau một vài tháng, cô đã có thể xuất viện vì bệnh đã khỏi. Quá trình chữa lành vẫn tiếp tục.
V 17 Trong nhiều chuyến truyền giáo ở Thụy Sĩ, Mục sư Tiến sĩ Koch mô tả sự phát triển bên trong của một người phụ nữ đã thực hành hầu hết mọi hình thức tâm linh và ma thuật. Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, mẹ cô đã có thể trò chuyện với cô một cách bí thuật và sau này, khi còn là một đứa trẻ, cô cũng đã được chữa lành một cách bí thuật khi bị bệnh. Cha mẹ cô bé cũng giới thiệu cho con gái mình những hoạt động ma thuật. Tất cả các hình thức ma thuật đã biết như ma thuật đen, ma thuật trắng, ma thuật truy đuổi, ma thuật phòng thủ, bói toán, bói bài, xem chỉ tay, cầu hỏi người chết, v.v. đều đã được thử nghiệm. Sau khi kết hôn, người phụ nữ trẻ vẫn tiếp tục những trò ma thuật này cho đến một ngày cô bị phát hiện đang thực hiện những hành động này. Trong một lần đi cầu vong vào ban đêm, cô đột nhiên nghe thấy tiếng xích sắt va đập và tiếng gõ cửa. Cô cũng liên tục cảm thấy giường của mình bị nâng lên. Cô tự hỏi liệu đây có phải là dấu hiệu của bệnh tâm thần hay là tác động của ma thuật đen. Trong thời gian thử thách này, cô bắt đầu đọc Kinh Thánh và cầu nguyện. Tuy nhiên, những nỗ lực này lần nào cũng gặp phải thách thức lớn. Điều này khiến cô nghĩ rằng mình đang phải đối phó với thế lực đen tối. Cô tâm sự với một người phụ nữ tin Chúa mà cô quen biết. Một nhóm cầu nguyện nhỏ sau đó đã cầu thay cho cô. Tiếp theo là nhiều tháng đấu tranh gian khổ. Sự phát triển nội tâm của người phụ nữ có vấn đề này lúc lên lúc xuống. Cô ấy bị giằng xé giữa niềm tin và sự nghi ngờ. Cô khao khát được hòa bình với Chúa, nhưng không thể thoát khỏi cảm giác sợ hãi khủng khiếp của mình. Một trận chiến khủng khiếp kéo dài trong hai năm. Một ngày nọ, người phụ nữ thấy việc ca ngợi huyết của Chúa Jesus Christ mỗi ngày như là dấu hiệu cứu rỗi của cô trở nên quan trọng. Từ thời điểm đó, cô có thể tin vào Lời Chúa. Sự cám dỗ của cô đã lắng xuống. Nhờ Đấng Christ, cô đã được giải thoát hoàn toàn.
Sự miêu tả về mối nguy hiểm của thuyết duy linh này nên kết thúc bằng tin tốt lành: phúc âm là tin mừng lớn lao về chiến thắng từ trận chiến thành công nhất trong lịch sử thế giới. Thập giá đồi Golgotha là đài tưởng niệm vĩ đại của chiến thắng và giải thoát khỏi mọi quyền lực của bóng tối. Bất cứ ai đến với thập giá đều được chia sẻ chiến thắng của Chúa Giêsu Christ.
Chương 4: PHẢN BÁC SÁCH MA THUẬT MÔ-SE THỨ 6/7 (DR.KOCH)
Kinh nghiệm mục vụ với Sách Moses thứ 6 và thứ 7
Tính Lịch Sử
Trong hai mươi năm qua, nhiều người xưng tội đã tặng tôi nhiều bản sao của cuốn sách này. Phiên bản cũ nhất được gửi cho tôi có niên đại từ năm 1503. Lời tựa nêu rằng bản gốc được lưu giữ tại Vatican ở Rome và việc in ấn cuốn sách này được thực hiện dưới sự bảo trợ của một giáo hoàng. Những tuyên bố đáng ngờ này trước tiên phải được xác minh về tính xác thực. Một phiên bản khác của cuốn sách ma thuật khét tiếng này có ghi chú trong phần lời nói đầu rằng một thầy tu từ Erfurt đã thu thập những câu thần chú ma thuật này. Mỗi phiên bản trong 400 năm qua có nội dung rất khác nhau.
Vào thế kỷ 19, Sách Moses thứ 6/7 kết hợp với một số phần của cuốn sách ma thuật tiếng Pháp “Rồng Lửa”. Cuốn sách tiếng Pháp này được cho là được in vào cuối thế kỷ 17 dựa trên bản thảo từ năm 1522. Sau cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, nhằm phế truất Chúa và tôn nữ thần lý trí lên ngôi, “Rồng Lửa” đã trở thành kinh thánh thay thế đáng sợ của các nhóm ma thuật ở Pháp. Ở đây chúng ta có một hiện tượng phổ biến trong lịch sử tôn giáo: bất kỳ ai chối bỏ Đức Chúa Trời hằng sống đều trở thành con mồi của ma quỷ. Niềm tin vào Đức Chúa Trời đã bị thay thế bằng sự tôn thờ ma quỷ một cách khủng khiếp. Sau khi hợp nhất rời rạc hai cuốn sách ma thuật này, cuốn sách đôi đã được xuất bản một phần dưới tên “Rồng Lửa” hoặc “ Sách Moses thứ 6/7”, một phần có tên gọi chung là “Báu vật gia đình bí thuật và cảm thông”.
Tiêu đề “ Sách Moses thứ 6/7” là một bút danh, một cái tên giả. Moses không liên quan gì đến những câu thần chú này. Các pháp sư chỉ tuyên bố Moses là người bảo vệ và chủ nhân của họ kể từ trận chiến thắng lợi của ông với các pháp sư Ai Cập (Xuất Ê-díp-tô Ký 6-8). Đây là sự hiểu lầm tai hại về khả năng tiên tri của người của Chúa trong Cựu Ước. Sách Moses Thứ 6/7 đã được tái bản trong những năm gần đây. Trên hết, một nhà xuất bản ở Braunschweig lại có tiếng xấu là đã phân phối cuốn sách ma thuật khủng khiếp này. Tôi đã được tặng những bản sao có hình thức và bố cục tương tự như Tân Ước.
Sự phân phối của cuốn sách
Trong những năm gần đây, tôi đã có những bài giảng giáo dục về mối nguy hiểm của thuyết huyền bí trên khắp thế giới nói tiếng Đ ức, tức là ở Đức, Thụy Sĩ, Áo, Alsace và vùng Saar. Tôi cũng đã đến thăm cộng đồng người Đức ở nước ngoài tại Tây Ban Nha, Ý, Balkan, Anh và các nước Scandinavia. Có thể tìm thấy nhiều loại tài liệu huyền bí ở khắp các nước châu Âu. Sách Moses thứ 6/7 hiện diện ở tất cả các vùng nói tiếng Đức trên lục địa của chúng ta. Tôi đã tìm thấy những khu vực phân phối cụ thể trong khoảng bảy mươi tuần giảng bài ở Thụy Sĩ tại các bang Appenzell và St. Gallen (Toggenburg), cũng như ở Graubünden. Ngoài ra, cuốn sách ma thuật này cũng được tìm thấy ở hầu hết các nơi khác tại Thụy Sĩ nhưng với số lượng ít hơn. Sách Moses Thứ 6/7 sau đó được tìm thấy với số lượng lớn ở các thung lũng dãy núi An-pơ của Áo, cũng như ở Alsace và Lorraine. Ở Đức, các khu vực chính là Rừng Đen, dãy núi Swabian Jura, các thung lũng núi cao Bavaria, các dãy núi thấp của Đức, đồng cỏ Lüneburg, Mecklenburg và Schleswig-Holstein. Cũng giống như ở Thụy Sĩ, cuốn sách này chỉ được phân phối rải rác ở các vùng khác của Đức. Cuốn sách này hiếm khi được tìm thấy ở các khu định cư công nghiệp mới. Các khu định cư của người Đức ở Balkan đã bị nhiễm hoàn toàn cuốn sách này. Những người định cư di cư đến Đức vẫn duy trì truyền thống tà thuật này cho đến ngày nay.
Nội Dung
Nội dung chi tiết không cần thiết và cũng không nên có ở đây. Cuốn sách hướng dẫn cách con người có thể tiếp xúc với ma quỷ. Có những câu thần chú về sự săn lùng và phòng thủ bằng phép thuật, có những dạng câu thần chú trả thù, câu thần chú bệnh tật, câu thần chú chết chóc, câu thần chú sinh sản, câu thần chú tình yêu và nhiều hơn nữa. Nhiều câu nói cũng mang sắc thái tôn giáo để che giấu. Đối với những ai muốn đọc và giữ lại cuốn sách để nghiên cứu, cần lưu ý rằng trong Sách 6, Chương 1: 6 Người đọc và chủ sở hữu của cuốn sách được hứa sẽ nhận được sự bảo vệ đặc biệt của Satan.
Ví Dụ
Sau đây là một số ví dụ từ tập tin của tôi. Chúng được chọn ngẫu nhiên và có thể nhân lên nhiều lần.
V 1 Một người đàn ông đã làm việc nhiều năm với Sách Moses 6/7. Người phụ nữ này cũng tham gia vào hoạt động huyền bí. Con cháu của gia đình này mắc chứng rối loạn thần kinh và tâm thần. Một người con gái cảm thấy như có một bức tường ngăn cách giữa mình và Chúa. Bà đã hướng về Chúa Giê-xu, nhưng không được giải thoát hoàn toàn khỏi nỗi đau khổ về mặt tinh thần. Một người cháu gái trong dòng họ này đã trở thành người chấp sự nhà thờ. Bà cũng cảm thấy có một bức tường ngăn cách giữa Chúa và chính mình và bị bệnh tâm thần. Bác sĩ trưởng của một phòng khám tâm thần đã giải thích với người chấp sự này: “Bệnh của bà không phù hợp với bệnh cảnh lâm sàng của bệnh viện tâm thần.”
V 2 Một bà mẹ có một số phép thuật mạnh mẽ để loại bỏ mụn cóc và các bệnh về da. Bà đã sử dụng nghệ thuật của mình cho chính những đứa con của mình. Con cái của bà giờ đang phải chịu gánh nặng. Một người con gái bị tâm thần phân liệt, và bản thân người mẹ cũng mắc chứng báng bổ và u sầu. Khi được hỏi bà học thuật huyền bí ở đâu, bà trả lời rằng chồng bà đang học Sách Moses 6/7. vào hôn nhân. Từ thời điểm đó, nhiều điều bắt đầu xuất hiện trong cuộc sống của bà mà trước đây bà chưa từng biết đến. Người phụ nữ đã để Chúa chỉ cho mình con đường đến với Chúa và thực sự đã được giải thoát. Ngày hôm sau khi cải đạo, căn hộ của bà đã xảy ra một cuộc náo loạn dữ dội. Có tiếng đập và tiếng gõ rất lớn như thể cả ngôi nhà đang đầy rẫy tà ma. Bản thân người mẹ giờ đây đã được tự do nhờ ân điển của Chúa. Nhưng con cái của họ vẫn bị ảnh hưởng bởi những sức mạnh huyền bí này.
V 3 Một người đàn ông đã học được với sự giúp đỡ của Sách Moses 6/7 về ma thuật đen. Ông tham gia vào cả hoạt động truy đuổi ma thuật và phòng thủ ma thuật. Ông ủng hộ các hoạt động ma thuật của mình thông qua các hành động tượng trưng. Ông nghĩ rằng mình có thể tự bảo vệ mình khỏi sự săn đuổi bằng cách chém một con dao mở vào bàn. Ông ta cố gắng hành hạ kẻ thù bằng cách đựng nước tiểu trong một cái chai và lẩm bẩm một câu thần chú. Điều này sẽ ngăn chặn kẻ thù của ông trút giận.
V 4 Một người đàn ông đã phẫu thuật trong nhiều năm với khối u bằng Sách Moses 6/7. là nghệ thuật đen tối. Không lâu trước khi qua đời, ông đã trao lại cuốn sách này cho con trai cả của mình và hướng dẫn con trai về luật chơi ma thuật. Người con trai tiếp tục công việc kinh doanh mờ ám của cha mình. Từ thế hệ thứ ba trở đi, tất cả con cháu đều mắc chứng u sầu. Hai cô con gái và tất cả các cháu của pháp sư đen đều dễ bị trầm cảm.
V 5 Một người đàn ông đã dành nhiều năm nghiên cứu Sách Moses 6/7 và tiến hành các thí nghiệm trong lĩnh vực ma thuật đen. Tác động của nghệ thuật đen này thể hiện rõ trong ngôi nhà và trên con cháu. Trong nhiều năm, tất cả cư dân trong nhà đều nghe thấy tiếng gõ cửa. Ban đêm, tiếng ầm ầm và tiếng va chạm vang lên, khiến những người phải ngủ qua đêm trong ngôi nhà này cảm thấy sợ hãi. Con cháu của những người hành nghề huyền bí này là những người có tính cách bất thường. Người con trai là một người đàn ông tàn bạo, nóng tính đã tra tấn người vợ đầu tiên của mình đến chết. Ông cũng đã hành hạ người vợ thứ hai của mình một cách vô nhân đạo trong nhiều năm. Ông ta là một bạo chúa hung bạo và đối xử với trẻ em một cách vô cùng thô bạo và bạo lực. Tất cả những đứa trẻ đều rời nhà trước tuổi hai mươi vì cha của chúng. Người phụ nữ chăm chỉ, tốt bụng đã phải chịu chết dưới tay người đàn ông này.
V 6 Một người đàn ông đã dành cả cuộc đời mình để nghiên cứu Sách Moses 6/7 và sử dụng nó để thực hành ma thuật đen. Ngôi nhà và gia đình của người đàn ông này là nơi bất ổn và bất hòa. Người hành nghề huyền bí đã chết một cách khủng khiếp, trong cơn đau đớn tột cùng và phát ra mùi hôi thối nồng nặc. Vợ ông đã tự đầu độc mình và cũng chết trong đau đớn khủng khiếp. Một người con trai mất khi còn nhỏ. Cô con gái đang trong tình trạng đau khổ về mặt tinh thần nghiêm trọng. Khi trưởng thành, cô bé vẫn đái dầm, liên tục phải chịu đựng các vấn đề về tình dục và bị tổn thương về mặt tâm lý. Ngôi nhà của gia đình này bị ám ảnh bởi hiện tượng ma quái. Có thể nghe thấy tiếng gõ cửa và tiếng lạch cạch trong nhà. Ma quỷ cũng xuất hiện vào ban đêm.
V 7 Một người phụ nữ muốn trao Sách Moses 6/7 cho con trai cả của bà khi bà hấp hối. Người con trai từ chối. Trong số những hậu duệ của người phụ nữ đã tham gia vào ma thuật đen trong nhiều năm này, có nhiều thành viên trong gia đình có vấn đề về tâm thần. Sự trầm cảm, hay cãi vã, nóng tính và những khuynh hướng cực đoan khác là một phần trong bức tranh tâm lý và tính cách của con cái.
V 8 Trong một gia đình làm nông, người ông sở hữu Sách Moses 6/7 và sử dụng nó để thực hành các phép thuật của mình. Tất cả con cháu của ông đều bất thường. Hai cô con gái thường xuyên đi xem bói và cả hai đều mắc chứng rối loạn tâm thần. Khi lão phù thủy già chết, những hiện tượng ma quái xuất hiện trong ngôi nhà. Người ta liên tục nhìn thấy một người đàn ông không đầu trong ngôi nhà. Nhiều rối loạn khác nhau cũng xuất hiện ở thế hệ cháu. Một đứa cháu cứ ngã khỏi giường vào ban đêm. Một câu thần chú bảo vệ ma thuật đã được niệm và từ đó đứa trẻ vẫn nằm trên giường. Những đứa cháu khác của phù thủy này đều mắc chứng ăn cắp vặt và suy đồi tình dục. Một người chắt của thầy phù thủy đã mắc chứng rối loạn thần kinh khi mới mười bốn tuổi.
V 9 Trong một ngôi nhà, sách Moses 6/7 được lưu giữ và sử dụng trong nhiều năm. Những đứa trẻ trong ngôi nhà này đều bất thường. Một cô con gái bị trầm cảm. Một cậu con trai là kẻ say rượu và là người phóng đãng về tình dục.
V 10 Tôi biết bốn mục sư giữ cuốn sách Moses 6/7 ma thuật, cũng như một nhà truyền giảng cộng đồng và một nhà truyền giảng Cơ Đốc Phục Lâm cũng có cuốn sách này trong giá sách của họ để định hướng. Thật kỳ lạ khi thấy những người làm việc cho Nước Trời giữ những tài liệu như vậy trong tủ sách của họ thường có một hội chúng chết về mặt tâm linh.
V 11 Người rao giảng trong cộng đồng phải làm việc với nỗ lực lớn. Ông được biết đến là người chăm sóc một cộng đồng rất què quặt và chết về mặt thuộc linh. Sau bài giảng giáo dục về lĩnh vực huyền bí, nhà rao giảng này thú nhận rằng ông đã nghiên cứu tài liệu huyền bí trong nhiều năm và đã đọc tất cả các sách về ma thuật, bao gồm cả sách Moses thứ 6/7.
V 12 Một trợ lý buổi thờ phượng dành cho thiếu nhi đã làm việc trong nhiều năm. Cô ấy cũng nghiên cứu sách Moses 6/7 và thảo luận về bệnh tật. Qua sự chăm sóc mục vụ, tôi biết rằng nhiều người trong vòng quen biết của bà đã bị bà săn đuổi bởi thế lực huyền bí.
V 13 Một người nông dân trẻ tiếp quản trang trại của cha mình vào năm 1946. Vào mùa thu năm đó, toàn bộ đàn lợn của ông đều chết. Vì bác sĩ thú y không thể xác định nguyên nhân tử vong nên người nông dân đã gửi toàn bộ con lợn đến Viện Sinh học Động vật ở Zurich để kiểm tra. Tất cả các mẫu chất độc có sẵn đều được lấy từ con vật đã chết. Viện không đạt được kết quả nào. Nguyên nhân gây ra cái chết của những con vật này vẫn chưa được làm rõ. Khi đàn gia súc đột nhiên chết thêm lần nữa vào mùa thu năm sau, người nông dân đã nỗ lực hơn nữa để xác định nguyên nhân tử vong. Chuồng trại được kiểm tra, thức ăn được kiểm tra và những con lợn chết được kiểm tra lại. Mọi nỗ lực đều không thành công. Sau đó, ông cho phá dỡ chuồng lợn và xây dựng lại ở một địa điểm khác bằng gỗ mới. Đến năm thứ ba, đàn lợn cũng chết theo cách tương tự. Các con vật đột nhiên kêu lên rồi ngã xuống. Tất cả các khám nghiệm đều được lặp lại. Anh trai của người nông dân bị thiệt hại đã cho lợn ăn phần thức ăn còn lại mà không khiến chúng chết. Người nông dân đã nhận thức được điều này từ nhiều phía: “Em hẳn có một kẻ thù có thể dùng phép thuật hành hạ và giết chết động vật của em.” Người nông dân bị thiệt hại ban đầu đã từ chối lời khuyên này vì cho rằng nó hoàn toàn vô nghĩa. Ông đã tìm lời khuyên từ một bác sĩ thú y đang không biết phải làm gì trước tình trạng tai nạn ngày càng gia tăng. Khi được hỏi về phép thuật, nạn nhân quay sang vị Mục sư địa phương, người chỉ cười nhạo anh ta và nói: “Điều đó không tồn tại”. Một số dân làng chỉ cho người nông dân rằng có những pháp sư ở quận Toggenburg cũng có thể giết lợn, gia súc và ngựa bằng phép thuật. Tình trạng này cứ tiếp diễn năm này qua năm khác. Người nông dân bảo vệ chuồng ngựa của mình bằng khóa kép. Ông giăng một sợi chỉ đen quanh nhà vào ban đêm để xem có ai có thể vào nhà không. Chuồng ngựa được trang bị vệ sinh đạt chuẩn. Thức ăn được kiểm soát cẩn thận và các giống vật nuôi dùng để nhân giống được thay đổi liên tục. Mọi nỗ lực đều có cùng kết quả. Vào mùa thu và trước các ngày lễ lớn như Giáng sinh và Phục sinh, lợn luôn chết đột ngột.
Một ngày nọ, vấn đề bí ẩn này có diễn biến kỳ lạ. Vị Mục sưđịa phương đã đến thăm người nông dân và mời ông đến gặp mình để trò chuyện. Người hàng xóm của ông, người có tiếng xấu trong làng, đã thú nhận điều gì đó với ông và bây giờ muốn nhắc lại lời thú nhận trước mặt người nông dân và cầu xin ông tha thứ. Ba người đàn ông ngồi cùng nhau trong phòng làm việc của mục sư. Sau đó, người hàng xóm có tiếng xấu của người nông dân đã thú nhận rằng anh ta đã giết lợn của người nông dân này hàng năm bằng ma thuật đen. Đến thời điểm này, đã có ba mươi hai con lợn chết theo cách kỳ lạ này. Người nông dân vô cùng tức giận và hỏi tại sao anh ta lại làm như vậy. Người hàng xóm giải thích: “Tôi luôn khó chịu vì bọn trẻ nhà anh gây nhiều tiếng ồn gần nhà tôi.” Vị Mục sư hỏi người xưng tội rằng làm sao ông có thể làm được điều đó. Để trả lời câu hỏi này, thủ phạm đã báo cáo như sau. Khi còn trẻ, ông đã có được nhiều cuốn sách ma thuật, đặc biệt là cuốn Để trả lời câu hỏi này, thủ phạm đã báo cáo như sau. Khi còn trẻ, ông đã có được nhiều cuốn sách ma thuật, đặc biệt là sách Moses 6/7. Ông đã nghiên cứu chuyên sâu các tài liệu huyền bí và tìm hiểu về cái gọi là giao ước của quỷ dữ hoặc đơn thuốc của quỷ dữ. Cuối cùng, ông đã có mong muốn thử nghiệm thí nghiệm kỳ lạ này. Ông đã đến một ngã tư đường vào một đêm thứ sáu giữa mười hai giờ trưa và hiến dâng mình cho quỷ dữ bằng chính máu của mình. Ông giải thích rằng một hợp đồng thực sự đã được lập ra giữa ông và Satan. Trong sự việc này, ông đã nhìn thấy ác quỷ bằng xương bằng thịt, nhưng không phải trong trí tưởng tượng thời trung cổ với sừng, đuôi và chân dê, mà là một hình thù đen xoăn với đôi mắt đỏ như máu và mõm nhỏ. Hoặc nếu không, người đó sẽ mặc trang phục đen thanh lịch theo phong cách cổ xưa. Từ ngày đó, người học trò chăm chỉ của sách Moses 6/7 là đối tác hợp đồng của quỷ dữ, hắn có sức mạnh huyền bí mà hắn đã sử dụng để giết ba mươi hai con lợn. Sau đó, vị linh mục hỏi người xưng tội tại sao lúc này lương tâm của ông lại thanh thản. Ông nhận được câu trả lời rằng người hàng xóm đã làm rất nhiều điều tốt cho ông trong nhiều năm đến nỗi ông cảm thấy xấu hổ vì điều đó. Sau đó, ông hứa sẽ cứu người nông dân khỏi cái chuồng ma ám này trong tương lai. Người nông dân đã không nộp đơn khiếu nại vì dù sao cũng không có căn cứ pháp lý nào cho trường hợp như vậy. Từ lúc xưng tội, người hàng xóm có khả năng tà thuật này đã đi nhà thờ trong nửa năm. Trong thời gian này, người nông dân kia không còn nuôi lợn nữa. Sau nửa năm, người xưng tội lại tái nghiện, bắt đầu uống rượu trở lại và tránh xa nhà thờ. Trước Ngày lễ Ăn năn và Cầu nguyện, người nông dân lại mất hai con lợn theo cách tương tự như trước. Người dân trong làng đều biết rằng người đàn ông có phép thuật này, người vẫn còn giữ trong tay những cuốn sách ma thuật mà ông ta dùng để thực hành ma thuật đen, không chỉ có khả năng thực hiện các cuộc truy đuổi ma thuật mà còn có khả năng kiếm tiền một cách huyền bí thông qua các ứng dụng tâm linh. Để xác minh trường hợp này, cần lưu ý rằng giấy chứng nhận kiểm tra lợn có sẵn tại Viện Sinh học Động vật ở Zurich. Hơn nữa, hai Mục sư địa phương có mặt trong buổi xưng tội đã xác nhận sự việc này. Bác sĩ thú y cũng thừa nhận trong một cuộc trò chuyện cá nhân rằng ông đã kiểm tra những con lợn như vậy nhiều lần để xác định nguyên nhân tử vong, nhưng không phát hiện ra điều gì. Ông cũng nghi ngờ có sự liên hệ ma thuật. Bản thân tôi có báo cáo về người nông dân thiệt hại đã tìm đến tôi để xin lời khuyên mục vụ. Trong lúc đó, tôi lại đến thăm người nông dân. Trước sự chứng kiến của vị mục sư địa phương hiện tại, người nông dân giải thích rằng ông đã làm theo lời khuyên của tôi cách đây hai năm. Cả ông và vợ, cùng toàn thể gia đình, đã quyết định theo Chúa Jesus. Một nhóm cầu nguyện đã được thành lập tại nhà và đã họp thường xuyên trong hai năm. Từ đó, tình trạng lợn chết đã dừng lại. Vì vậy, ở đây Chúa Giê-xu cũng đã chiến thắng các thế lực đen tối.
Các vấn đề và ghi chú
Những ví dụ này cung cấp rất nhiều manh mối mà chỉ có thể được thể hiện dưới dạng phác thảo.
Tâm lý. Người mê tín và có phép thuật tin vào các hoạt động huyền bí của mình sẽ khuất phục trước sự ép buộc phải hoàn thiện bản thân. Một cách vô thức, chính anh ta đã thực hiện được điều anh ta muốn thông qua những thao tác ma thuật của mình. Anh ta là nạn nhân của sự tự ám thị nếu không muốn thừa nhận những mối liên hệ tiếp theo. Ít nhất thì các phong tục huyền bí cũng có tính chất gợi ý nguy hại.
Về mặt cận tâm lý. Tuy nhiên, các ví dụ cũng chỉ ra một thực tế khách quan có thể xác định được: rằng với ma thuật đen và trắng, như được thực hành liên quan đến cuốn sách thứ 6/7 của Moses, cũng có thể đạt được ảnh hưởng đến người khác mà không thể giải thích được bằng phương pháp ám thị (suggestiv). Trong bối cảnh này, cần lưu ý rằng lý thuyết lừa đảo, được nhiều người theo chủ nghĩa duy lý như Tiến sĩ Gubisch và ở một số chỗ cũng được Lehrer Kruse ủng hộ, theo hiểu biết của tôi về sự việc, là không thể chấp nhận được. Các vấn đề không đơn giản như vậy.
Về mặt tâm thần. Trong các gia đình thử nghiệm với cuốn sách thứ 6/7 của Moses, các bệnh tâm thần, bệnh rối loạn cảm xúc và các rối loạn tâm lý và thần kinh khác xảy ra với tần suất rất cao. Các bác sĩ tâm thần thường cho rằng nguyên nhân và kết quả bị nhầm lẫn ở đây. Nguyên nhân là do thể trạng tâm lý bệnh lý của con người, hậu quả là việc thử nghiệm ma thuật. Tuy nhiên, việc chăm sóc mục vụ cho hàng ngàn người làm việc huyền bí cũng cho thấy trình tự ngược lại. Trong nhiều trường hợp, ma thuật có thể được chứng minh là nguyên nhân hoặc ít nhất là tác nhân gây ra các rối loạn tâm lý. Thực tế này cũng được một số bác sĩ tâm thần Cơ đốc công nhận, ví dụ như Tiến sĩ Lechler, bác sĩ trưởng của viện điều dưỡng Hohe Mark. Giáo sư Tiến sĩ Bender ở Freiburg cũng biết về chứng rối loạn tâm thần trung gian (đồng bóng).
Về mặt tôn giáo Cơ đốc. Ma thuật tạo ra sự chống lại mọi thứ trong Kinh thánh, cái gọi là sự phản kháng. Ngay cả ma thuật trắng cũng không cho thấy một thực tế nào khác. Về cơ bản, thử nghiệm ma thuật và gánh nặng huyền bí phát sinh từ đó là một hiện tượng tôn giáo. Các phạm trù tâm lý và tâm thần học không phù hợp với biểu hiện tôn giáo này. Theo quan điểm của Kinh thánh, đằng sau việc sử dụng ma thuật – bất kể nó được thực hiện dưới ngọn cờ đen, trắng hay trung lập – là các thế lực ma quỷ. Thực tế này không thể chứng minh được, cũng như sự tồn tại của Chúa hoặc Quỷ dữ không thể chứng minh bằng toán học. Tuy nhiên, có những đặc điểm và dấu hiệu rất rõ ràng cho thực tế ma quỷ của ma thuật.
Về mặt pháp lý. Trong lĩnh vực ma thuật, nhiều tội nhẹ và tội ác xảy ra. Lời xưng tội thường tiết lộ cho tôi những điều kinh hoàng. Thật không may, những sự việc như vậy khó có thể nắm bắt được về mặt pháp lý, vì người ta không thể đạt được mục tiêu trong các vấn đề siêu hình bằng các bằng chứng khoa học tự nhiên. Trong nhiều trường hợp, người ta phải dựa vào các mối quan hệ tần suất xuất hiện trong ma thuật và các dấu hiệu mạnh mẽ. Nguyên tắc nhân quả đơn giản (nguyên nhân) hầu như không thể nắm bắt được về mặt pháp lý ở bất cứ đâu.
Về mặt vệ sinh tâm lý. Vì lợi ích sức khỏe tâm thần của người dân chúng ta, điều mong muốn là các tài liệu về ma thuật biến mất khỏi dân tộc chúng ta. Tuy nhiên, điều này khó có thể thực hiện được, vì nhiều gia đình nông dân sở hữu sách huyền bí viết tay. Nhiều công thức thảo luận ma thuật thậm chí chỉ được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong mọi trường hợp, sẽ là một khởi đầu tốt nếu việc in lại, như đã xảy ra ở Braunschweig và Pfullingen và ở những nơi khác, không còn có thể thực hiện được nữa. Hơn nữa, các nhóm nghề nghiệp đặc biệt liên quan đến ma thuật cũng cần được giám sát tốt hơn. Điều này bao gồm nhiều người hành nghề chữa bệnh, người chữa bệnh bằng từ trường, người thôi miên, bác sĩ tự nhiên, nhà tiên tri, thầy bói, người sử dụng con lắc và những người khác. Theo kinh nghiệm của những người chăm sóc mục vụ nổi tiếng, 90% các nhóm nghề nghiệp này hoạt động theo cách huyền bí, ma thuật. Tác hại về mặt tâm lý đối với người dân chúng ta do ma thuật gây ra là không thể bỏ qua.
Đối diện với sự ô nhiễm huyền bí của dân tộc chúng ta và các nước châu Âu với cuốn sách thứ 6/7 của Moses, mục vụ Cơ đốc giáo phải đối mặt với một nhiệm vụ kép.
Vấn đề là phải làm sáng tỏ sự việc một cách thích hợp và cung cấp sự giúp đỡ và hướng dẫn mục vụ toàn diện. Thời đại ném đá các pháp sư như trong Cựu ước đã qua. Nhiệm vụ của chúng ta không phải là sử dụng bạo lực, mà là cuộc chiến khai sáng bằng vũ khí thuộc linh. Tuy nhiên, nhiệm vụ canh gác này không thể bị phá hoại bởi sự thiếu hiểu biết trắng trợn về phép thuật và do đó bị vô hiệu ngay từ đầu. Chúng ta không thể hiểu được những mối liên hệ ma thuật thông qua chức năng của năm giác quan vì chúng dựa trên những sự kiện siêu nhiên, siêu hình và tôn giáo.
Ngoài nhiệm vụ cảnh báo thích hợp, người làm mục vụ còn có nhiệm vụ chăm sóc linh hồn cho những người đã bị ảnh hưởng. Vì gánh nặng huyền bí là một thực tế tôn giáo, nên việc điều trị tâm thần hoặc tâm lý trị liệu không có thẩm quyền. Những người bị ảnh hưởng bởi huyền bí đã trở thành đối tượng và mục tiêu của những ảnh hưởng ma quỷ. Ở đây, không phải bác sĩ, cũng không phải nhà thần học, mà chỉ có Chúa Giê-xu mới giúp được. Chỉ có một nơi mà những người mang gánh nặng được giải thoát: đó là tại thập tự giá Golgotha. Thập tự giá là đài tưởng niệm của sự giải phóng và cứu chuộc. Đối với lý trí con người, đó là một điều gây khó chịu (scandalon). Việc giải quyết các gánh nặng cũng không phải là vấn đề “hợp lý”, mà là các quá trình đặc biệt của Tân Ước.
Quyền lực của ma quỷ kết thúc bằng đức tin nơi Chúa Giê-xu. Chúa Giê-xu là ánh sáng của thế gian, vượt lên trên bóng tối của sóng gió ma quỷ. Ngài đã xuất hiện để phá vỡ quyền lực của ma quỷ. Và Chúa Giê-xu đã phá vỡ quyền lực bóng tối này trên thập tự giá.
Chương 5: CHỮA LÀNH PHÉP LẠ NGÀY NAY
Các phương pháp chữa bệnh ngoài y học theo quan điểm của mục vụ tư vấn linh hồn
- Những sự chữa lành trong Kinh Thánh
Ân tứ chữa lành.
Lời cầu nguyện bằng cách sử dụng những lời hứa của Chúa Đặt tay và cầu nguyện bởi các trưởng lão
Tác dụng của Lời Chúa.
- Thuật chữa bệnh trung gian (đồng bóng, The Medial Healing Art)
Phép Thuật Chữa Lành
Người Chữa Bệnh Bằng Cầu Nguyện (Gesundbeter)
Người Chữa Bệnh Tâm Linh
Sự Chữa Bệnh Tinh Thần (Chữa Bệnh Bằng Tâm Trí)
Chữa Bệnh Xuất Thần
Người Chữa Bệnh Bằng Đức Tin
Những Hiện Tượng Giả Ân Tứ Và Chữa Bệnh
Dấu Kỳ Và Phép Lạ Của Ma Quỷ
- Sự phân biệt các Thần
———————————————–
- Những sự chữa lành trong Kinh Thánh
Vấn đề chữa lành bằng đức tin ngày nay không chỉ bị những người thế tục, mà còn bị nhiều Cơ đốc nhân bác bỏ. Họ làm suy yếu tất cả các lời hứa của Kinh thánh gây thiệt hại cho chính họ. Họ sống trong một sa mạc tâm linh khô cằn. Bây giờ, ai đặt câu hỏi về việc chữa lành bằng đức tin và cầu nguyện vào Lời Chúa, sẽ nhận được từ đó câu trả lời cơ bản rằng đó không phải là mối quan tâm mục vụ đầu tiên. Quan trọng và trọng tâm hơn việc chữa lành là thông điệp về sự cứu rỗi của con người. Sự cứu rỗi của linh hồn quan trọng hơn sự chữa lành của thể xác. Vấn đề đầu tiên của cuộc đời chúng ta là Chúa Giê-su là Chúa của chúng ta. Việc thực hiện ý muốn của Ngài quan trọng hơn việc thực hiện mong muốn của chúng ta.
Việc chữa bệnh ngoài y học là một vấn đề nhiều mặt. Để tránh hiểu lầm, tôi muốn đề cập rằng tôi hoàn toàn công nhận khoa học y tế, nhưng đồng thời tôi cũng tin vào khả năng chữa lành bằng đức tin và cầu nguyện. Tôi phản đối chủ nghĩa cực đoan rằng một Cơ đốc nhân tin kính không được phép tìm đến bác sĩ và thuốc men. Chúa đã ban cho chúng ta trí tuệ để chúng ta sử dụng nó.
Có một sự hỗn loạn lớn trong lĩnh vực chữa bệnh ngoài y học. Việc chữa bệnh bằng ma quỷ thường được coi là chữa bệnh thần thánh. Ma quỷ đôi khi chữa lành một tổn thương thể xác với cái giá phải trả lại là linh hồn. Cũng có những cách chữa bệnh ở cấp độ con người, ví dụ như chữa bệnh bằng ám thị (suggestive healings), ám thị tôn giáo (religious suggestions), mặc dù có yếu tố tôn giáo nhưng không phải là chữa bệnh theo Kinh thánh.
Trong Kinh thánh, chúng ta có nhiều hình thức chữa bệnh thần thánh khác nhau:– Ân tứ chữa bệnh (1 Cô-rinh-tô 12,9). – Đặt tay, xức dầu và cầu nguyện bởi các trưởng lão của hội thánh (Gia-cơ 5,14). – Cầu nguyện bằng cách sử dụng những lời hứa của Chúa. – Tác dụng của Lời Chúa.
Về mặt thần học, vấn đề chữa bệnh bằng đức tin bị kẹp giữa hai quan điểm cực đoan đối lập. Những người theo chủ nghĩa phân chia thời đại nghiêm ngặt (The strict dispensationalists ) cho rằng một số ân tứ thuộc linh chỉ có tính chất tạm thời và đã chấm dứt vào cuối thời kỳ sứ đồ. Những người cực đoan cuồng nhiệt ở phía bên kia tuyên bố rằng chúng ta phải có tất cả các ân tứ thuộc linh trong thời đại của chúng ta với sức mạnh và cường độ tương tự như trong thế kỷ thứ nhất. Điều mà cả hai phe đối lập phải suy nghĩ là những kinh nghiệm trong các cuộc phục hưng lớn. Ở đây, những gì đã xảy ra trong cuộc phục hưng lớn nhất vào lễ Ngũ Tuần đầu tiên ở Giê-ru-sa-lem được lặp lại ở quy mô nhỏ hơn. Trong các khu vực phục hưng, đôi khi Chúa ban cho tất cả các hình thức chữa bệnh. Tôi đã tiếp xúc với tất cả các cuộc phục hưng lớn của thế kỷ này. Cuộc phục hưng xứ Wales (1906-1910) đã sống động với tôi qua những cựu chiến binh như Tiến sĩ Evans và Lindsey Glegg, những người đã trải qua xứ Wales và kể lại cho tôi nghe. Qua nhiều lần đến thăm và lưu trú hàng tuần, tôi đã tìm hiểu về các cuộc phục hưng của Indonesia, Hàn Quốc, Uganda, Ethiopia, Bắc Thái Lan, Đài Loan, Nam Ấn Độ và sự trỗi dậy của người Zulu ở Nam Phi. Trong tất cả các chuyến đi của tôi đến các khu vực phục hưng, tôi đã quan sát thấy rằng những phước lành và ân tứ ban đầu được ghi lại trong Kinh thánh lại xuất hiện trở lại. Đặc biệt, cuộc phục hưng Indonesia đã đi kèm với những phép lạ phi thường.
Các cuộc phục hưng giữa các dân tộc văn minh, những người có Kinh thánh, thường không đi kèm với những phép lạ lớn. Họ có Lời Chúa và có bác sĩ cho người bệnh. Tất nhiên, cũng có những lời cầu nguyện được đáp ứng ở đây như ở mọi nơi đối với các Cơ đốc nhân tin kính.
Các cuộc phục hưng giữa các dân tộc nguyên thủy, những người không có Kinh thánh và cũng không biết đọc, thường đi kèm với những hành động quyền năng lớn lao của Chúa. Một ví dụ điển hình cho điều này là cuộc phục hưng ở Timor. Đó là một ví dụ điển hình từ kế hoạch của Chúa. Những người sống trong rừng rậm không có trường học, ngoại trừ ở những khu định cư lớn hơn. Có hàng trăm nghìn người Timor không biết đọc và viết. Chúa đã tự bày tỏ mình với những người mù chữ này trong cuộc phục hưng lớn của Indonesia từ năm 1965 thông qua những phép lạ phi thường. Tuy nhiên, khi những người mù chữ học đọc và sau đó nhận được hàng nghìn cuốn Kinh thánh và Tân Ước, các phép lạ đã nhanh chóng giảm dần.
Vậy chúng ta cũng gặp phải vấn đề tương tự như thời kỳ tông đồ. Chúa Giê-su đã thực hiện nhiều phép lạ như một dấu hiệu của Đấng Mê-si. Các sứ đồ có quyền năng làm phép lạ và các ân tứ của Đức Thánh Linh như một bằng chứng về sứ mệnh tông đồ của họ. Và không chỉ như một chứng nhận thần thánh, mà còn bởi vì nỗi đau khổ của những người xung quanh đã chạm đến trái tim họ. Kể từ thời điểm Tân Ước hoàn chỉnh được xuất hiện, quyền năng làm phép lạ đã lùi bước để nhường chỗ cho Lời Chúa được soi dẫn. Sự suy giảm các ân tứ thuộc linh này đã có thể được quan sát thấy trong thời kỳ tông đồ. Lần cuối cùng chúng ta nghe nói về ân tứ nói tiếng lạ là trong thư gửi cho người Cô-rinh-tô. Trong các bức thư sau này của Phao-lô và Giăng, chúng ta không còn nghe nói về điều đó nữa. Ân tứ chữa bệnh cũng tương tự. Trong Công vụ các Sứ đồ 19 có chép: “Đức Chúa Trời đã thực hiện những phép lạ phi thường qua tay của Phao-lô. ” Nhưng 14 năm sau, Phao-lô không thể chữa lành cho cộng sự của mình nữa. Chúng ta nghe thấy điều này trong Phi-líp. 2,27: “Ê-ba-phô-đích đã bị bệnh nặng sắp chết” Và trong II Ti-mô-thê. 4,20: “Còn Trô-phim, ta đã để người lại ở Mi-lê vì người bị bệnh”. Những phép lạ như những dấu hiệu báo trước, cho đến khi Lời Chúa được soi dẫn, được viết ra, được in ấn xuất hiện. Đó luôn là một sự phát triển lành mạnh, khi các tín đồ học cách dựa vào Lời Chúa chứ không phải dựa vào kinh nghiệm của họ.
Ân Tứ Chữa Bệnh
Tân Ước ban đầu cho chúng ta biết về ân tứ này trong I Cô-rinh-tô 12. Đó là Charisma iamatou, mà chúng ta thấy một cách trọn vẹn nơi Chúa Giê-su và các môn đồ của Ngài. Trong lịch sử Hội Thánh, ân tứ này khá hiếm. Chúng ta quan sát thấy nó chẳng hạn như ở Samuel Zeller, ở Jungfer Trudel, ở Johannes Seitz và những người khác, và trên hết là ở Mục sư Johann Christoph Blumhardt. Tôi đã có cơ hội gặp gỡ một số người được ban cho ân tứ như vậy.
Trong số những cuộc gặp gỡ đầy ơn phước với những người của Chúa, có cuộc gặp gỡ của tôi với Baron Üxküll. Cuộc đời của ông là sự ứng nghiệm lời hứa của Chúa Giê-su: “Kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y như Kinh thánh đã chép vậy” (Giăng 7,38). Nơi nào Baron Üxküll rao giảng Lời Chúa, thì ở đó Thánh Linh của Chúa xác nhận sứ điệp của ông bằng những dấu hiệu đi kèm. Những người nghe được bị Chúa Cứu Thế cảm động và trải nghiệm phép lạ của sự đổi mới. Người mù được thấy, người què được đi, người chết về phần linh hồn được sống lại và trải nghiệm sự tái sinh. Quyền năng của thế giới vĩnh hằng đã được bày tỏ. Ví dụ sau đây được đưa ra:
V 1 Một cô gái trẻ đang trong giai đoạn nặng nhất của bệnh lao phổi đã đến gặp ông. Cô ấy muốn kết hôn. Bác sĩ đã cấm cô ấy và nói: “Điều đó không thể xảy ra với cô.” Cô gái hoàn toàn tuyệt vọng. Cô ấy rất muốn được khỏe mạnh, nhưng không muốn phó thác cuộc đời mình cho Chúa Giê-xu. Trong hoàn cảnh này, Üxküll đã từ chối việc đặt tay như đã thực hành trước đó theo Mác 16:18. Người bệnh thất vọng bỏ đi. Trong lúc cô ấy vắng mặt, nhiều người đã cầu nguyện cho cô ấy. Rồi cô ấy quay lại các buổi truyền giáo. Cô ấy bị dằn vặt trong lòng bởi nỗi đau bệnh tật và lương tâm cắn rứt. Một buổi tối, cô ấy ở lại để tâm sự với mục sư và phó thác mình cho Chúa Giê-xu. Điều bất ngờ đã xảy ra. Ngay cả trước khi Üxküll được yêu cầu cầu nguyện bằng cách đặt tay, cô gái đã đứng dậy và nói: “Tôi đã được chữa lành.” Đó không phải là ảo tưởng. Cô ấy đã đến khám bác sĩ của mình, ông rất kích động và hỏi: “Chuyện gì đã xảy ra với cô vậy? Cô đã khỏe mạnh rồi!” Cô gái đã kết hôn và hiện vẫn còn khỏe mạnh. Câu hỏi về quyền năng được thể hiện rõ ràng qua cuộc đời của Baron Üxküll này. Tân Ước làm chứng rằng Chúa Giê-su đã giảng dạy và chữa lành như một người có thẩm quyền (Ma-thi-ơ 7,29; Mác 1,41). Ân sủng này của lời giảng đầy quyền năng và sự chữa lành toàn năng, Chúa Giê-su đã ban cho các môn đồ của mình. Trong những lời từ biệt, Chúa đã hứa với những người của Ngài: “Ai tin ta, sẽ làm được những việc này” (Giăng 14,12). Những lời hứa như vậy đã không được coi trọng trong cộng đồng Cơ đốc giáo thiếu đức tin. Do đó, Chúa đã thỉnh thoảng đánh thức các nhân chứng, qua đó quyền năng cứu rỗi sống động của Ngài lại được nhìn thấy. Trong số những nhân chứng có thẩm quyền như tông đồ cũng có Daniel ở Madras. Cuộc gặp gỡ với ông đã trở thành một phước lành lớn đối với tôi. Ông là một người cầu nguyện. Ngay từ khi còn là một học sinh mười sáu tuổi, ông thường lui về cầu nguyện suốt đêm. Việc ở trong sự hiện diện của Chúa đã ban thẩm quyền cho lời chứng của ông.
V 1 Một ngày nọ, vợ của hiệu trưởng bị ốm. Bà ấy nằm bất tỉnh trong bệnh viện. Mọi người đều nghĩ rằng bà ấy sẽ chết. Lúc đó, Daniel nghe thấy tiếng Chúa phán: “Hãy đến bệnh viện và cầu nguyện cho bà ấy!” Ông hiệu trưởng, người đang ngồi cạnh giường vợ mình, đã cho cậu học trò trẻ tuổi vào. Daniel quỳ xuống bên cạnh giường và cầu xin cho người phụ nữ bất tỉnh được sống. Chúa đã nghe lời cầu nguyện của cậu. Người bệnh được bình phục. Câu chuyện chữa lành này được lan truyền khắp trường. Giờ đây, mọi người đều mở lòng đón nhận thông điệp của Chúa Giê-su. Ngay cả trong gia đình mình, mọi người cũng thấy Chúa đã chứng thực cho chàng trai trẻ Daniel. Một lần, mẹ cậu bị ngã và gãy xương sườn, bà đã cầu xin con trai mình: “Hãy cầu nguyện cho mẹ!” Anh đã cầu nguyện suốt đêm, và Chúa đã chạm đến người bệnh và chữa lành cho bà. Daniel trở thành hiệu trưởng của một trường học ở quê hương Kakinada của mình, bên bờ biển phía đông Ấn Độ. Giữa sự nghiệp của mình, cậu nghe thấy tiếng gọi của Chúa: “Hãy đến Madras!” Daniel đã nghe theo tiếng gọi, điều này đã dẫn cậu đến những khó khăn, thử thách và thất vọng. Ở Madras, Daniel là một người xa lạ, một người không được ai chú ý. Đây là một con đường chết chóc đối với cậu. Daniel đã cầu nguyện rất nhiều về nỗi đau khổ này. Chúa đã trả lời cậu như sau: “Nếu hạt lúa mì không rơi xuống đất và chết đi, thì nó vẫn chỉ là một hạt; nhưng nếu nó chết đi, thì nó sẽ sinh ra nhiều bông lúa.” Người chiến binh của Chúa đã được trải nghiệm điều đó. Sau bốn năm làm việc trung thành và không nao núng, những cánh cửa đã mở ra. Chúa đã ban cho một sự thức tỉnh tâm linh, lan rộng đến các thành phố và làng mạc lân cận. Điều được nói trong Ma-thi-ơ 11,5-6 đã được ứng nghiệm: “Kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, kẻ phung được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết được sống lại, kẻ khó khăn được nghe giảng tin lành. Phước cho ai chẳng vấp phạm vì cớ ta!.” Những ngày như trong Hội thánh đầu tiên đã bắt đầu. Đó là một mùa xuân tâm linh, mà chỉ những ai biết sách Công vụ các Sứ đồ và sự vận hành của Chúa Thánh Linh mới biết được đó là thật. Daniel và các cộng sự của ông không đưa ra bất kỳ quyết định nào mà không cầu xin ý Chúa. Mọi bước tiến của phong trào đều được thực hiện trên đôi chân quỳ gối. Sự thức tỉnh đã đến với cả những người có học thức lẫn những người không biết chữ, những người sùng đạo lẫn những tên tội phạm.
V 2 Công việc giữa những tên cướp bắt đầu với một người đàn ông tên là Stuart Purem đến từ một ngôi làng tội phạm ở Nam Ấn Độ. Anh ta đến Madras để điều trị một bệnh về mắt nguy hiểm. Trong chuyến thăm này, một bác sĩ đã kéo anh ta đến buổi nhóm họp của N. Daniel. Lần đầu tiên trong đời được nghe sứ điệp này, người đàn ông này đã bị tác động mạnh mẽ đến nỗi anh ta không thể ngủ được trong đêm đó. Anh ta chắp tay cầu nguyện để vượt qua nỗi đau khổ của mình. Rồi Chúa Cứu Thế hiện ra với anh ta và cho anh ta hiểu rằng anh ta sẽ chấm dứt được tội lỗi của mình. Người chiến binh cô độc trong đêm, kẻ từng nhiều lần là một tên cướp đường và kẻ cướp bóc, đã ăn năn hối cải và trở thành một công cụ đặc biệt của Chúa giữa những tên cướp. Bệnh mắt của anh ta đã khỏi trong thời gian ngắn. Anh ta trở về làng của mình và bắt đầu rao giảng Danh Chúa. Trong ngôi làng tội phạm bị quỷ ám, một thời kỳ phục hưng đã bắt đầu. Dưới lời rao giảng của John – đó là tên thánh của người đàn ông đã ăn năn hối cải – những tên cướp đã tan vỡ. Nhiều người trong số họ đã ngã xuống đất trong khi nghe giảng Tin Lành. Những người khác bị mù ba ngày như Phao-lô trước Đa-mách. Người bệnh được chữa lành và những khuôn mặt u ám trở nên sáng ngời bởi ánh sáng của Lời Chúa. Những người không biết đọc đã cầu xin Chúa: “Xin hãy giúp chúng con đọc được Lời Ngài.” Và Chúa đã làm một phép lạ cho họ, để họ có thể đọc được trong thời gian ngắn nhất. Một số người ăn năn hối cải đã bị tấn công trực tiếp bởi ma quỷ, những kẻ đã thống trị ngôi làng hàng thế kỷ. Những đứa trẻ nhỏ đã chết một cách bất thường. Quyền lực của bóng tối vươn tới tất cả những gì chúng ta yêu quý, khi chúng ta quyết định theo Chúa Giê-su. Nhiều người đã được chữa lành trong khi nghe giảng mà người giảng đạo không hề hay biết. Những người được chữa lành sau đó đã yêu cầu được tư vấn linh hồn và sắp xếp lại cuộc sống của họ. Ở đây, Thi Thiên 107,20 được ứng nghiệm: “Ngài ban lời Ngài và chữa lành cho họ, rồi Ngài cứu họ khỏi cảnh hủy diệt.” (BD2020). Lời Chúa và sự chữa lành được đặt cạnh nhau ở đây.
Trong khi ân tứ chữa lành bệnh tật là rất hiếm, có rất nhiều người nam có đức tin cầu nguyện cho người bệnh bằng cách sử dụng những lời hứa của Chúa. Bản thân tôi cũng đã được dẫn dắt đến điều này trong nhiều công việc mục vụ của mình.
V 3 Tại Panambi ở Brazil, tôi đã có một buổi truyền giáo. Một người phụ nữ bị bệnh đã đến gặp tôi để được tư vấn tâm linh. Cô ấy đã xưng tội và dâng cuộc đời mình cho Chúa Giê-su. Đột nhiên, tôi có cảm tưởng rằng Chúa muốn làm nhiều hơn nữa cho cô ấy. Tôi đã nói chuyện với cô ấy về điều đó và sau đó gọi một anh em thứ hai đến cầu nguyện. Đó là Mục sư Karl Gustav Braun, người đã mời tôi đến nhà thờ của ông. Chúng tôi cầu nguyện cho người phụ nữ bằng cách đặt tay. Ngày hôm sau, cô ấy quay lại và mang theo con gái mình, người bị “rung đầu gối” và liên tục bị khuỵu xuống khi đi bộ. Sau một cuộc trò chuyện tư vấn mục vụ, tôi đã cầu nguyện với cô gái, nhưng không đặt tay. Nhưng vẫn chưa đủ. Người mẹ còn xin tôi đến thăm nhà cô ấy để tôi có thể nói chuyện và cầu nguyện với cô con gái khác. Cô ấy bị nhiễm trùng thận và đã được điều trị y tế trong một thời gian dài. Sau khi tôi rời Brazil, tôi đã quên tất cả những điều này, bởi vì những buổi truyền giáo mới đang chờ đợi. Sau vài năm, tôi đến Panambi lần thứ ba. Ngay khi bắt đầu tuần thuyết giảng, người phụ nữ này lại xuất hiện và hỏi: “Ông còn nhớ tôi không? Ông đã cầu nguyện cho tôi và các con gái tôi trong chuyến thăm trước của ông. ”Sự việc nhanh chóng quay trở lại trong ký ức của tôi. Sau đó, tôi đã nghe một câu chuyện tuyệt vời. Người phụ nữ Bender này, một người gốc Đức, kể lại: “Tôi đã khỏe mạnh kể từ khi tôi xưng tội và dâng cuộc đời mình cho Chúa Giê-su. Con gái tôi bị đầu gối run rẩy đã tìm được một bác sĩ phẫu thuật giỏi, người đã phẫu thuật ổn định đầu gối cho con bé. Thận bị nhiễm trùng của con gái thứ hai cũng đã khỏi.”
V 4 Tôi đã được kể về trường hợp chữa lành sau đây: Một bác sĩ pháp y nằm viện với bệnh lao xương (viêm tủy xương). Chân phải của ông bị bó bột đến một nửa. Đối với bệnh nhân, thời gian bị bệnh này là một trường học về đức tin và cầu nguyện. Là một Cơ đốc nhân sùng đạo, ông đã biện luận trình tất cả những nỗi đau khổ của mình với Chúa. Ông đã cố gắng hết sức để chấp nhận sự dẫn dắt của Chúa. Trong thời gian nằm viện nhiều tuần, ông đã nhận được nhiều cuộc thăm hỏi. Trong số những người đến thăm khác nhau, một người phụ nữ giản dị, sùng đạo đã trở thành một trải nghiệm đặc biệt đối với ông. Cô ấy đã khuyến khích ông bằng những lời hứa của Kinh thánh và chỉ ra cho ông thấy rằng Chúa Giê-xu vẫn có thể làm phép lạ ngày nay. Chuyến thăm của nữ Cơ đốc nhân này đã củng cố đức tin của ông. Sau một đêm không yên giấc, trong đó ông đã vật lộn trong lời cầu nguyện hàng giờ liền, vào buổi sáng, ông đã có được sự chắc chắn rằng Chúa Giê-xu muốn tôn vinh chính Ngài qua ông. Khi cuộc thăm khám đến vào buổi sáng, ông nói với bác sĩ trưởng: “Chúa Giê-xu đã chữa lành cho tôi. ”Bác sĩ trưởng hoàn toàn mất bình tĩnh. Ông tin rằng mình đang đối phó với một kẻ cuồng tín tôn giáo và khó có thể bình tĩnh trước lời tuyên bố của người đồng nghiệp đang bị bệnh này. Bệnh nhân không còn dao động trong đức tin của mình nữa. Ông ấy thực sự đã được chữa lành từ ngày đó và có thể xuất viện. Viêm tủy xương không bao giờ tái phát kể từ khi được chữa lành bằng đức tin này. Sau trải nghiệm này, bác sĩ pháp y đã trở thành một nhân chứng sống động cho Chúa Giê-xu và không ngại kể về sự chữa lành bệnh kỳ diệu này, ngay cả với các đồng nghiệp của mình. Kể từ đó, ông đã trở thành phước lành cho nhiều người nhờ niềm tin sống động vào Chúa.
Hình thức chữa bệnh thứ tư mà Tân Ước kết hợp là đặt tay, xức dầu và cầu nguyện bởi các trưởng lão của hội thánh. Lời hứa này không phụ thuộc vào sự phục hưng với những dấu kỳ và phép lạ phi thường của nó. Lời hứa này là lời của CHÚA ĐƯỢC TÔN VINH phán với Hội thánh của Ngài mọi lúc mọi nơi. Chúa Giê-su đã đề cập đến sự trợ giúp đức tin này trong Mác 16,17-18 “Vậy những kẻ tin sẽ được các dấu lạ nầy: Lấy danh ta mà trừ quỉ; dùng tiếng mới mà nói; 18 bắt rắn trong tay; nếu uống giống chi độc, cũng chẳng hại gì; hễ đặt tay trên kẻ đau, thì kẻ đau sẽ lành”. Sứ đồ Gia-cơ đã thuật lại việc đặt tay kết hợp với xức dầu trong Gia-cơ 5, 14-16:“14 Trong anh em có ai đau ốm chăng? Hãy mời các trưởng lão Hội thánh đến, sau khi nhân danh Chúa xức dầu cho người bịnh đoạn, thì các trưởng lão hãy cầu nguyện cho người. 15 Sự cầu nguyện bởi đức tin sẽ cứu kẻ bịnh, Chúa sẽ đỡ kẻ ấy dậy; nếu kẻ bịnh có phạm tội, cũng sẽ được tha. 16 Vậy hãy xưng tội cùng nhau và cầu nguyện cho nhau, hầu cho anh em được lành bịnh: người công bình lấy lòng sốt sắng cầu nguyện, thật có linh nghiệm nhiều”
V 5 Một mục sư Tin Lành kể với tôi rằng một ngày nọ, một người bệnh trong giáo hạt của ông đã yêu cầu ông cùng với một trưởng lão đặt tay lên mình và cầu nguyện cho mình. Mục sư đã liên hệ với nhiều trưởng lão khác nhau, nhưng tất cả đều từ chối. Chưa ai từng làm điều đó trước đây. Không ai dám làm điều đó. Hành động này xa lạ với tất cả mọi người. Tại sao việc đặt tay theo Kinh Thánh này lại ít được biết đến trong Cơ đốc giáo phương Tây? Tại sao ngay cả những Cơ đốc nhân ở chúng ta, những người biết về những đoạn nói về sự chữa lành bằng đức tin, thường không có can đảm để áp dụng chúng? Tại sao Cơ đốc giáo lại để những đoạn này cho các giáo phái, những kẻ dạy dỗ sai lầm và các nhóm cuồng tín? Những lời hứa trong Kinh Thánh này chỉ dành cho những nhóm cực đoan thôi sao? Hay Hội thánh của Chúa Giê-xu có muốn tự chứng minh mình nghèo nàn đến mức không còn sống trong lời hứa của Kinh Thánh nữa chăng? Đó là tất cả những câu hỏi rất thời sự hiện nay. Chúng ta hãy xem xét vấn đề này dựa trên đoạn Kinh Thánh của Gia-cơ.
Để không đi lạc hướng ngay từ đầu như rất nhiều nhóm giáo phái, trước tiên chúng ta phải nghiên cứu nguồn gốc lịch sử tôn giáo của đoạn Gia-cơ 5,14. Trong cộng đồng Giu-đa, có tục lệ là người bệnh mời các trưởng lão đến. Người ta mong đợi sự giúp đỡ đặc biệt từ lời cầu nguyện của họ. Tục lệ tốt đẹp này đã được cộng đồng Cơ đốc giáo tiếp nhận. Trong tục lệ của người Giu-đa, vẫn còn tồn tại quan niệm cho rằng người bệnh là một tội nhân đặc biệt, một người bị Chúa trừng phạt. May mắn thay, không còn thấy dấu vết của thái độ tiêu cực này trong việc đặt tay cầu nguyện của Cơ đốc giáo. Việc xức dầu cần được giải thích. Cựu Ước biết đến việc xức dầu cho thầy tế lễ và nhà vua. Hơn nữa, việc xức dầu là biểu hiện của niềm vui lễ hội. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến Thi Thiên 23: “Chúa xức dầu cho đầu con, chén con đầy tràn.” Điều quan trọng trong bối cảnh văn bản của chúng ta là nhận định rằng dầu được coi là phương thuốc chữa bệnh tốt nhất trong y học. Như vậy, chúng ta thấy rằng dù có lời cầu thay của các trưởng lão, nhưng không bỏ qua sự trợ giúp của y học. Dầu trong thời Cựu Ước không chỉ là phương tiện phụng vụ mà còn là thuốc chữa bệnh. Chúng ta phải ghi nhớ tất cả những sự thật này. Đối với những kẻ cuồng tín, những người cho rằng phải từ chối bác sĩ dựa trên đoạn Gia-cơ, có thể phản bác rằng chính trong đoạn này không thiếu chỉ dẫn đến sự trợ giúp y tế. Tất nhiên, ở đây chủ yếu là nói về sự chữa lành bằng đức tin và cầu nguyện. Cũng không nên nói gì chống lại một Cơ Đốc nhân tin tưởng rằng mình có thể không cần đến bác sĩ và chỉ trông cậy vào sự giúp đỡ của Chúa. Tuy nhiên, một thái độ tin tưởng như vậy không được biến thành luật lệ cho người khác. Tôi có nhiều trải nghiệm không tốt trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, sự lạm dụng không hủy bỏ việc sử dụng đúng cách.
Điểm quan trọng nhất về lịch sử tôn giáo mà các nhà chú giải Kinh Thánh thường nêu ra là sự đối lập của đoạn Gia-cơ với các phương pháp chữa bệnh bằng ma thuật được thực hành trong thời cổ đại. Vào thời cổ đại, người ta cho rằng bệnh tật là do ma quỷ gây ra. Do đó, chữa bệnh đồng nghĩa với việc trừ tà. Việc chữa bệnh bao gồm việc thầy trừ tà, người làm phép thuật, gọi tên của linh liên quan hoặc gọi tên của một vị thần mạnh hơn. Chúng ta biết một hành động trừ tà như vậy trong Công vụ 19,13-16. Những người Giu-đa lang thang đã cố gắng trừ tà nhân danh Chúa Giê-su, mà không theo Chúa Giê-su. Tuy nhiên, việc trừ tà thất bại này đã gây ra hậu quả xấu cho họ. Chúng ta bây giờ có thể coi những phương pháp chữa bệnh bằng ma thuật này là một sự thật lịch sử tôn giáo đã lỗi thời, nếu những phương pháp chữa bệnh bằng ma thuật này không còn được thực hiện ở mức độ khủng khiếp như ngày nay. Điều này đưa chúng ta đến phần thứ hai của chủ đề.
- Thuật chữa bệnh trung gian (đồng bóng, The Medial Healing Art)
- a) Chữa bệnh bằng câu thần chú
- b) Người Chữa Bệnh Bằng Cầu Nguyện Đức Tin
- c) Người Chữa Bệnh Tâm Linh
- d) Sự Chữa Bệnh Tinh Thần (Chữa Bệnh Bằng Tâm Trí)
- e) Chữa Bệnh Xuất Thần
- f) Thầy lang Phi-líp-pin
- g) Bác sĩ phẫu thuật xuất thần
- h) Sự chữa bệnh bằng đức tin
- i) Những Hiện Tượng Giả Ân Tứ Và Chữa Bệnh
- j) Những Dấu Kỳ Và Phép Lạ Của Ma Quỷ
Hầu hết tất cả những người bệnh đều bị ám ảnh bởi câu hỏi: Làm thế nào để tôi khỏe mạnh? Câu hỏi này là chính đáng. Đầu tiên, sẽ được bác sĩ tư vấn. Nếu việc điều trị y tế không mang lại hiệu quả như mong muốn, một số người sẽ nhờ đến các phương pháp chữa bệnh huyền bí. Họ tìm đến những người có năng lực tâm linh, những người có thể làm “bùa phép”, “ban phước”, “chuộc”, “làm điều gì đó cho nó”. Những phương pháp chữa bệnh bằng ma thuật này được thực hiện trong thế kỷ 20 theo cách tương tự như chúng đã từng được thực hiện trong hàng thiên niên kỷ ở thời cổ đại. Người chữa bệnh bằng ma thuật, người trừ tà, người thuyết phục gọi tên của một linh mạnh mẽ để cầu xin sự giúp đỡ của nó. Tôi đã biết được rất nhiều phương pháp chữa bệnh như vậy trong quá trình tư vấn mục vụ. Tôi muốn phác thảo một số điều quan trọng nhất ở đây:
- a) Chữa bệnh bằng câu thần chú
Dễ đánh giá nhất là các phương pháp chữa bệnh trong lĩnh vực ma thuật đen. Ở đây, người ta ngay lập tức biết mình đang làm gì và với ai. Một ví dụ từ phương pháp chữa bệnh này.
V 6 Một người phụ nữ bị rối loạn tâm thần đã đến để được tư vấn mục vụ. Trong cuộc trò chuyện, một lá bùa hộ mệnh đã được phát hiện. Ban đầu, người phụ nữ từ chối giao nộp lá bùa hộ mệnh, vì nếu không, cô ấy sẽ chết trong vòng ba ngày. Đó là những gì người chữa bệnh bằng ma thuật đã nói với cô ấy. Cuối cùng, cô ấy đã giao nộp nó và kinh hoàng khi thấy một mảnh giấy nhỏ bên trong có ghi câu thần chú: “Linh hồn tôi thuộc về ma quỷ. ”Hóa ra người phụ nữ này trước đây bị bệnh phổi và đã được chữa khỏi nhờ một người chữa bệnh bằng ma thuật bằng cách gọi tên ba con quỷ. Sau khi giao nộp lá bùa hộ mệnh, cô ấy lại bị bệnh phổi. Tuy nhiên, cô ấy đã tìm thấy con đường đến với Chúa Giê-xu và tin tưởng đặt số phận của mình vào tay Chúa. Việc đánh giá ma thuật trắng không đơn giản như ma thuật đen. Các hình thức ma thuật trắng được tìm thấy trong dân gian thậm chí còn nhiều hơn cả ma thuật đen. Điều này liên quan đến việc ma thuật trắng được ngụy trang dưới vỏ bọc tôn giáo. Người ta không nắm bắt được ngay bối cảnh như với ma thuật đen. Những vật dụng tôn giáo có tính chất gây hiểu lầm. Một ví dụ có thể minh họa điều này.
V 7 Các bác sĩ tại một khoa phẫu thuật đã nói với một người phụ nữ rằng họ phải cắt bỏ chân bị bệnh của bà. Người bệnh lo lắng muốn thử mọi cách trước khi cắt bỏ chân và đã bí mật mời một thầy pháp đến. Người chữa bệnh bằng phép thuật nói với người bệnh: “Cô phải tin tôi!” Sau đó, ông ta dùng một câu thần chú và đọc ba bài kinh Lạy Cha. Ngay sau khi được chữa trị, cơn đau đã biến mất. Chân không cần phải cắt bỏ. Các bác sĩ thấy sự thay đổi này thật khó hiểu. Tuy nhiên, kể từ thời điểm được chữa trị bằng phép thuật, người phụ nữ đã khỏi bệnh lại bị mắc chứng rối loạn tâm thần nghiêm trọng. Gia đình bà sau đó cũng gặp phải nhiều tai họa. Việc chữa bệnh bằng ma thuật trắng được thực hiện dưới các biểu tượng tôn giáo như: Ba cái tên cao quý nhất, ba bài kinh Lạy Cha, ba câu Kinh Thánh, ba bài Thánh Vịnh, ba cây thánh giá, v. v. Điều này đánh lừa những người ngây thơ – đôi khi cả những người có học thức về thần học. Người ta coi một phương pháp chữa bệnh như vậy là của Cơ đốc giáo. Trên thực tế, việc chữa bệnh như vậy thuộc về điều răn thứ hai: “Ngươi chớ lấy danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi mà làm chơi, vì Đức Giê-hô-va chẳng cầm bằng vô tội kẻ nào lấy danh Ngài mà làm chơi.” (Xuất Ê-díp-tô ký 20:7) Thiên Chúa của chúng ta không thể bị con người ép buộc. Ngài không phải là tay sai của chúng ta, mà khi thầy pháp ra lệnh phải tuân theo. Kinh Thánh coi tất cả các công thức phù phép và những từ ngữ trong Kinh thánh bị đóng băng thành những công thức trống rỗng là thuộc về lĩnh vực phù thủy (Phục truyền luật lệ ký 18,10-12 10 Ở giữa ngươi chớ nên có ai đem con trai hay con gái mình ngang qua lửa, chớ nên có thầy bói, hoặc kẻ hay xem sao mà bói, thầy phù thủy, thầy pháp, 11 kẻ hay dùng ếm chú, người đi hỏi đồng cốt, kẻ thuật số, hay là kẻ đi cầu vong; 12 vì Đức Giê-hô-va lấy làm gớm ghiếc kẻ làm các việc ấy, và vì các sự gớm ghiếc ấy, nên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đuổi các dân tộc đó khỏi trước mặt ngươi.). Ma thuật trắng thường chỉ là ma thuật đen được ngụy trang dưới vỏ bọc Cơ đốc giáo. Điều này ứng nghiệm với 2 Cô-rinh-tô. 11,14: “Nào có lạ gì, chính quỉ Sa-tan mạo làm thiên sứ sáng láng” Sự ép buộc cầu nguyện bằng ma thuật của ma thuật trắng hoàn toàn khác với thái độ cầu nguyện và đức tin của Cơ đốc nhân: Lạy Chúa, xin cho ý Cha được nên.
- b) Người Chữa Bệnh Bằng Cầu Nguyện Đức Tin
Việc chữa bệnh bằng đức tin cầu nguyện mang tính thương mại cũng thuộc về loại ma thuật trắng trá hình dưới dạng tôn giáo. Một ví dụ về điều này.
V 8 Một doanh nhân mắc bệnh nan y đã tham khảo ý kiến của một người chữa bệnh bằng đức tin và trả cho ông ta một khoản phí kha khá cho dịch vụ cầu nguyện chuyên nghiệp của mình. Vài ngày sau, người đàn ông bị bệnh đến thăm một người bạn của gia đình và phàn nàn: “Tôi không thể cầu nguyện được nữa. Tôi cảm thấy như có những thế lực đen tối đang bao quanh tôi.” Ông đã nỗ lực hết sức để đọc Tân Ước mỗi ngày. Ông ấy không thể chịu đựng được nữa. Trong cơn tuyệt vọng, ông quay lại phía bạn bè và cầu xin: “Cứu tôi với!” Những thế lực đen tối mà tôi chưa từng biết đến trong đời đang hành hạ tôi.” Cuộc chiến này kéo dài thêm nhiều tháng nữa. Nỗi đau về mặt thể xác đã hoàn toàn biến mất, nhưng ông vẫn bị dày vò bởi sự đau khổ và cám dỗ về mặt tinh thần. Cuối cùng, cuộc chiến kỳ lạ này đã kết thúc bằng một hành động tuyệt vọng. Người doanh nhân, cha của bốn đứa con, đã tự tử. Nếu đây chỉ là một trường hợp cá biệt thì nó sẽ không có giá trị chứng cứ. Tôi có bộ sưu tập hơn một nghìn trường hợp mục vụ như vậy, cho phép tôi đánh giá các phương pháp chữa bệnh của nhà ngoại cảm.
Bốn người chữa bệnh tâm linh mà tôi biết rõ nhất là Harry Edwards, Bruno Gröning, Tiến sĩ Trampler và Johannes Bolte. Tôi đã nhiều lần chứng kiến hiệu quả chữa lành của họ trong công tác chăm sóc mục vụ.
Trong những chuyến đi diễn thuyết ở Anh, tôi đã có nhiều cuộc trò chuyện với Harry Edwards, một trong những thầy lang nguy hiểm nhất ở thế giới phương Tây. Có hai sự việc nhỏ đã giúp tôi sáng tỏ.
V 9 Harry Edwards giải thích rằng ông chỉ có thể chữa lành khi có sự hiện diện của những người giúp đỡ về mặt tinh thần. Khi nói như vậy ông muốn nói đến những sinh vật không phải con người. Thỉnh thoảng ngài cũng gọi họ là thiên thần của mình.
V 10 Harry kiếm được rất nhiều tiền nhờ việc chữa bệnh của mình. Ông đã bán ngôi nhà ban đầu của mình cho một cặp vợ chồng theo đạo Thiên Chúa sùng đạo. Gia đình này không sống lâu trong ngôi nhà này. Một người đàn ông và một người phụ nữ đến tư vấn và báo rằng ngôi nhà bị ma ám. Họ không được nghỉ ngơi vào ban đêm. Tin đồn lớn đến mức họ quyết định bán ngôi nhà lần nữa. Một người mua tiềm năng đã đến xem nhà và vui mừng thốt lên: “Ồ, tuyệt vời quá”. Những người trên trời sống ở đây.” Người mua, một người theo thuyết tâm linh, đã ngay lập tức nhận thấy có những sinh vật “từ thế giới khác” hiện diện trong ngôi nhà, những người mà ông cảm thấy thoải mái khi ở bên.
Edwards được biết đến qua cuốn sách “Chữa lành tâm linh”. Ngoài ra, ông còn chia sẻ cho chúng ta hiểu biết sâu sắc về sự nghiệp chữa bệnh và phương pháp chữa bệnh của ông. Ở tuổi 41, ông và vợ đã tham dự một buổi lễ tâm linh, một hình thức lễ hội có rất nhiều ở Anh. Trong buổi cầu hồn, một nhà ngoại cảm đã nói với ông rằng có một số linh hồn hướng dẫn ở thế giới khác muốn liên lạc với ông. Lúc đầu ông ấy hành động một cách thụ động. Nhưng trong một buổi học, ông đã tràn đầy sức mạnh bên trong. Theo cuốn sách, quá trình này đã phát triển khả năng ngoại cảm của ông và dẫn đến tình trạng “bị hồn ma chiếm hữu”.
Từ lúc đó, người đàn ông này đã bị các linh hồn kiểm soát. Ông đã đưa ra một loạt các thông điệp xuất thần trong các buổi lễ tâm linh. Trong thời gian này, khả năng chữa lành bệnh cho những bệnh nhân vắng mặt đột nhiên xuất hiện. Khi được cho biết tên hoặc nơi cư trú của một người bệnh, ông đột nhiên nhìn thấy căn phòng nơi bệnh nhân đang ở và có thể chữa lành cho người đó thông qua ảnh hưởng tâm linh. Cuốn sách nói như sau về quá trình chữa bệnh: “Ông ấy đã tìm đến trạng thái xuất thần, đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập kết nối với người bạn tâm linh. Sau đó, người ta xác định được vị trí của bệnh bằng cách sờ nắn bệnh nhân. Sau đó, năng lượng chảy qua bàn tay của người chữa bệnh đến bệnh nhân, tạo ra cảm giác ấm áp.” Tất cả những người được chữa lành theo cách này đều đang bị thôi miên. Harry Edwards đã làm một việc tồi tệ cho người dân Anh: hàng ngàn người đã bị nhà tiên tri của các linh thông linh này làm phiền. Và những cơ đốc nhân ở Anh vẫn im lặng.
Tiến sĩ Trampler đến từ Munich, người có phương pháp chữa bệnh tương tự như Bruno Gröning, đã chứng kiến những bệnh nhân của mình được chữa lành một cách đáng kinh ngạc hầu như hàng ngày. Ngay cả những căn bệnh mãn tính, hữu cơ cũng thường được chữa khỏi rất nhanh chóng. Người chữa bệnh này đã sử dụng những sức mạnh và nguyên tắc nào? Chỉ những từ khóa sẽ được đưa ra ở đây. Tiến sĩ Trampler nói về một sức mạnh có mục đích chảy qua ông và sau đó chảy sang bệnh nhân của ông. Để tiếp nhận tốt hơn các sức mạnh vũ trụ từ không gian, bạn có thể giơ đầu ngón tay lên hoặc sử dụng giấy bạc. Nên đặt tờ giấy dưới gối hoặc đeo trên người. Về mặt tôn giáo, nhiều luồng tư tưởng hội tụ ở người chữa bệnh này. Ông nói về Đức Chúa Trời và Chúa Giê-xu Christ, nhưng cũng thừa nhận các tôn giáo văn hóa khác là nguồn mặc khải. Những lời dạy của người chữa bệnh này là sự kết hợp của các yếu tố phiếm thần, huyền bí, tôn giáo tự nhiên và cơ đốc giáo. Một sự nhầm lẫn nguy hiểm và gây hiểu lầm. Trong quá trình chăm sóc linh hồn, tôi được kể về bản chất công việc chữa bệnh của ngài. Ông đứng trước bệnh nhân và tập trung vào nỗi đau của họ trong vài giây rồi mới có thể đưa ra chẩn đoán chính xác. Sau đó, ông ta sử dụng sức mạnh tinh thần của mình và tác động đến bệnh nhân. Sau đó ông hỏi cô: “Cô có cảm thấy hơi ấm không?” Trong quá trình này, một mặt chúng ta có chẩn đoán bằng giác quan và mặt khác là ảnh hưởng của phương tiện tâm linh. Ví dụ sau đây cho thấy đây không phải là sức mạnh thần thánh mà là quyền lực trung gian (đồng bóng).
V 11 Một người phụ nữ từ cộng đồng Pietist (phái mộ đạo) đã đến gặp Tiến sĩ Tramper để tìm sự giúp đỡ cho một căn bệnh hữu cơ. Bà ngồi trong phòng chờ cầu nguyện tha thiết cùng nhiều bệnh nhân khác. Người chữa bệnh đến, đi qua các hàng và giúp đỡ từng người đang tìm kiếm sự giúp đỡ. Khi đứng trước người phụ nữ đang cầu nguyện, ông giải thích ngắn gọn: “Tôi không thể giúp bà được. Về nhà đi.” Sau đó ông ấy bước tiếp. Tôi có một số ví dụ như thế này trong tập tin của mình.
Tôi nghe một thành viên trong nhóm truyền giáo “Tin Mừng” của Wolfgang Heiner kể về cuộc gặp gỡ với Bruno Gröning. Sau đó tôi nhận được giấy chứng nhận bằng văn bản.
V 12 “Khi còn nhỏ, tôi đã bị bệnh trong nhiều năm. Tôi đã đi khám từ bác sĩ này sang bác sĩ khác nhưng không ai có thể giúp tôi. Một ngày nọ, cha tôi nghe nói về vị bác sĩ thần kỳ nổi tiếng Bruno Gröning. Cha tôi đặt hết hy vọng vào người đàn ông này. Có rất nhiều người ở tiền sảnh của phòng điều trị. Mọi người đều đang đợi Gröning. Cha tôi và tôi ngồi giữa họ. Tôi cầu nguyện thầm lặng. Tôi không nhớ mình đã cầu nguyện với Chúa điều gì vào lúc đó, nhưng tâm trí tôi luôn nghĩ đến Chúa Jesus. Đột nhiên cánh cửa mở ra và một người đàn ông có vầng trán cao bước vào phòng. Đó là Bruno Gröning. Ông ấy càng tiến về phía tôi, tôi càng cảm thấy lo lắng trong lòng. Tôi trở nên bồn chồn. Ông ấy đã nói chuyện với mọi người. Ông cũng hỏi tôi liệu tôi có tin rằng ông có thể giúp tôi khỏe mạnh không. Tôi trả lời: ‘Nếu Chúa ban cho ông sức mạnh thì được!’ Tôi biết Gröning nói rằng ông chữa bệnh bằng thẩm quyền của Chúa. Nhưng đột nhiên tôi nhận thấy một sự mâu thuẫn. Gröning nói: ‘Có một sức mạnh bên trong cô chống lại sức mạnh của tôi.’ Tôi giữ im lặng vì tôi biết đó là quyền năng của Chúa Jesus.
Nhưng Gröning không từ bỏ tôi. Ông ấy đảm bảo với tôi rằng tôi vẫn sẽ tin ông. Ông ấy đưa cho tôi một quả bóng giấy bạc để cầm trên tay và một tấm giấy bạc để đặt dưới gối vào ban đêm. Cha tôi cũng mua của ông một cuốn sách có ảnh của Gröning. Tôi nên đặt tay lên bức ảnh này và nghĩ tới Gröning. Nếu tôi làm tất cả những điều này và tin vào nó, tôi sẽ khỏe mạnh. Nhưng tôi vẫn không khỏe lại. Ngược lại, một nỗi sợ hãi khủng khiếp đã lớn dần trong tôi kể từ đó. Tôi đã bị tra tấn. Một ngày nọ, tôi không thể chịu đựng được nữa và đã đốt tờ giấy bạc. Sau đó, trong lòng tôi trở nên tĩnh lặng hơn. Một thời gian ngắn sau, khi tôi đi nghỉ cùng nhóm truyền giáo ‘Tin Mừng’, tôi đã kể cho một mục sư về Gröning. Họ cầu nguyện cùng tôi, đặt tay lên tôi, và tôi đã từ bỏ thế lực đen tối này thông qua lời cầu nguyện từ bỏ. Kể từ đó, mọi áp lực đều được giải tỏa, mọi nỗi sợ hãi đều biến mất. Chúa Jesus Christ đã giải thoát tôi và tôi muốn cảm ơn Ngài vì điều đó.”
Mục sư Johannes Bolte là một trong những người chữa bệnh tâm linh gây cho tôi nhiều rắc rối nhất trong công tác chăm sóc mục vụ. Ông sở hữu khả năng ngoại cảm cao và được coi là người dùng thuật con lắc có kinh nghiệm. Ông đã có những thành công to lớn trong việc chữa bệnh ở miền Trung nước Đức. Một ngày nọ, ông ấy gửi cho tôi tờ rơi “Từ nghiên cứu con lắc đến phương pháp chữa bệnh thần kỳ”. Tài liệu này chứa đựng những phát biểu sâu sắc từ nhiều năm thực hành con lắc của ông và là điểm khởi đầu cho những giải thích sau đây.
Những mối liên hệ chéo, được dành hẳn một chương để bàn luận, có ý nghĩa tiết lộ bản chất của nghiên cứu con lắc. Các vùng trung gian đều có “di căn” lẫn nhau giống như ung thư giai đoạn tiến triển. Bolte viết ở trang 9: “Trong thời đại tâm linh sắp tới cũng sẽ có một loại thuốc mới! Một loại thuốc ra đời từ trải nghiệm tâm linh này. Nghiên cứu về con lắc và từ tính chữa bệnh sẽ trở nên rất quan trọng đối với các bác sĩ.” Ở trang 11, tác giả viết: “Khoa học con lắc là chìa khóa cho lĩnh vực vi lượng đồng căn vô cùng phức tạp”. – Nghiên cứu con lắc – từ tính chữa bệnh – liệu pháp vi lượng đồng căn là sự kết nối chéo trên cơ sở phương tiện trung gian (đồng cốt).
Điểm khởi đầu cho phương pháp thực hành con lắc của Bolte là giả định về bức xạ phát ra từ các chất hữu cơ và vô cơ. Bức xạ hư cấu này, nằm ngoài khả năng đo lường vật lý, được Nam tước von Reichenbach gọi là Od. Người Trung Quốc gọi nó là Chi, có vai trò trong châm cứu. Trong hầu hết các tôn giáo phương Đông, sự phát xạ của năng lượng nguyên tố được coi là một khái niệm cơ bản. Thực hành của tất cả các nhà tìm nước đều phát triển từ sự phát ra giả định của tất cả các chất.
Bolte viết ở trang 27: “Khoa học con lắc trước hết và quan trọng nhất là nghiên cứu các tia bí ẩn, chưa được biết đến. Đây chủ yếu là tia od, tia sinh học mà không may là vật lý và y học hiện đại vẫn chưa biết đến, mặc dù chúng đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ tự nhiên, thậm chí có lẽ còn quan trọng hơn cả điện. – Con lắc cho bạn thấy bản chất của căn bệnh, nguồn gốc của nó: nó đến từ điều kiện bức xạ bị nhiễu loạn.”
Thực ra, người ta nên biết ơn Mục sư Bolte vì đã nói chi tiết về nghiên cứu con lắc của ông. Điều này giúp người đánh giá dễ dàng nhận ra bản chất của phản ứng con lắc. Ở trang 29, Bolte viết: “Sự thật thứ hai là sự tồn tại của một thế giới bên kia. Những sinh vật ngoài thế giới này cũng có thể tác động đến con lắc. Vì Od là vật chất trung gian (đồng bóng, truyền thông) giữa thế giới vật chất và thế giới tinh thần, nơi mà thế giới bên kia của các giai đoạn trung gian tồn tại. Tất cả các hiện tượng của thuyết duy linh cũng xảy ra với Od, chẳng hạn như gõ bàn, viết chữ thông qua giao tiếp bằng tâm linh, hiện tượng vật chất hóa và những hiện tượng khác. Vì vậy, theo một nghĩa nào đó, con lắc cũng là một công cụ nguy hiểm. Do đó, người dùng con lắc phải biết những luật lệ và mối nguy hiểm của việc giao tiếp với người đồng cốt. Nếu không thì thậm chí người đó có thể phát điên.” Tôi biết ơn Bolte vì đã nói trắng ra như thế này. Ông ấy giúp tôi tiết kiệm công cung cấp bằng chứng khi chính ông, với tư cách là một người dùng con lắc và một người chữa bệnh có trình độ cao, chứng minh mối liên hệ với thuyết thông linh.
Thực ra, người ta có thể kết thúc chương này tại đây. Nhưng điều quan trọng là chúng ta cũng phải xem xét đến thói quen của người sử dụng con lắc. Bolte nói ở trang 7: “Với con lắc, tôi thực sự có thể đọc được các mỏ đồng trên bản đồ theo vị trí, độ sâu và độ dày.” Tương tự như vậy, tính cách và thậm chí toàn bộ chi tiết cuộc sống của người được miêu tả có thể được xác định thông qua một bức ảnh. Sử dụng con lắc, người ta có thể xác định bệnh tật của bệnh nhân trên bản đồ giải phẫu bằng cách cầm con lắc bằng tay phải và đặt tay trái lên bệnh nhân. Vì vậy, người sử dụng con lắc có kinh nghiệm không chỉ có thể cảm nhận, phát hiện, đo lường và giải thích các tia mà còn có thể phát ra các tia và do đó chữa bệnh. – Đó là vấn đề chữa lành về mặt tâm linh. Có những sự bói toán từ xa và chữa bệnh từ xa, tức là quá trình chủ động và thụ động ở khoảng cách xa. Tôi liên tục bắt gặp những câu phát biểu trong cuốn sách của Bolte mà tôi quen thuộc khi nói đến việc chăm sóc mục vụ. Ông viết ở trang 38: “Người ta không nên sử dụng con lắc để hỏi về những điều mà tâm trí chúng ta không thể tiếp xúc được. Hậu quả là gì? Những sinh vật thấp kém từ thế giới bên kia ngay lập tức can thiệp, liên tục bao quanh chúng ta trong thế giới đầy cám dỗ và thử thách này. Nếu chúng thấy ai đó có khả năng ngoại cảm và muốn lợi dụng khả năng ngoại cảm của họ, thì chúng sẽ ở đó và cố gắng biến người đó thành phương tiện ngoại cảm của chúng, nghĩa là lạm dụng người đó.” – Ngoài việc tôi hoàn toàn bác bỏ toàn bộ phương pháp thực hành con lắc, có những câu ở đây tương ứng với quan sát của riêng tôi. Bất kỳ ai nhận ra và muốn sử dụng khả năng ngoại cảm của mình đều trở thành căn cứ hoạt động của các linh hồn ma quỷ. Vì vậy, đây không phải là điều mà một người theo chủ nghĩa mộ đạo hay Tin Lành nói, mà là lời của một người sử dụng thuật con lắc có kinh nghiệm.
- d) Sự Chữa Bệnh bằng Tinh Thần (Chữa Bệnh Bằng Tâm Trí)
Một phong trào chữa lành khác, theo một nghĩa nào đó, là Khoa học Cơ đốc giáo. Tôi không thể đưa ra tường thuật chi tiết về phong trào này ở đây. Kurt Hutten đã làm điều này trong cuốn sách của ông về các giáo phái, “Người tiên kiến, Người ấp ủ, Người nhiệt tình” (“Seers, Brooders, Enthusiasts”)
Tôi có thể sử dụng các nguồn sau đây để biết thông tin về phương pháp chữa lành bằng tâm trí, phương pháp chữa bệnh của Khoa học Cơ đốc giáo. Hai tác phẩm chính của nhà văn người Mỹ Mary Baker Eddy, người sáng lập phong trào này. Các tựa đề là “Khoa học và Sức khỏe” và “Các tác phẩm khác”, bao gồm những năm 1883-1896. Tôi cũng có cơ hội đến thăm trụ sở của phong trào tại Boston (Hoa Kỳ). Đây là tòa nhà chọc trời có 27 tầng. Tôi nhận được hầu hết tài liệu từ sự chăm sóc mục vụ và thông qua các cuộc gặp gỡ và thảo luận với những người theo phong trào huyền bí này. Nguồn gốc và tác động của phương pháp chữa lành bằng tâm trí cho thấy rõ ràng đây không phải là một sự kiện trong Kinh thánh. Sự khởi đầu được đánh dấu bằng một phép chữa bệnh huyền bí. Mary rất ốm yếu ngay từ khi còn nhỏ. Khi sức khỏe ngày càng suy yếu, bà đã tìm đến bác sĩ PP Quimby như một phương sách cuối cùng trong cơn tuyệt vọng của mình. Điều này xuất phát từ thôi miên và sử dụng sức mạnh chữa bệnh gợi ý và từ tính. Trong vòng tám ngày, cô đã được chữa khỏi. Từ đó trở đi, bà tôn thờ ông và việc học hỏi và thực hành khoa học chữa bệnh tâm linh đã trở thành trọng tâm cuộc sống của bà.
Bản thân Quimby đã học được về sức mạnh của sự ám thị từ một nhà thôi miên đi khắp nơi, người đã đưa một cậu bé vào giấc ngủ sâu và làm cậu bé cứng đờ như một tấm ván. Quimby rất ấn tượng và coi sức mạnh thôi miên tâm linh là sức mạnh của tâm hồn. Sau đó, ông đã thử nghiệm “sức mạnh tâm hồn” của mình trong bảy năm và phát triển một phương pháp chữa bệnh mới. Ông dựa trên quan điểm cho rằng bệnh tật chủ yếu là kết quả của cách suy nghĩ sai lầm dựa trên nỗi sợ hãi, lo lắng và những cảm xúc tiêu cực khác, cần phải vượt qua bằng tinh thần. Suy nghĩ sai lầm phải được chống lại bằng suy nghĩ đúng đắn, và cảm xúc tiêu cực phải được chống lại bằng sức mạnh của cảm xúc tích cực. Vì dòng điện từ vô hình truyền từ tâm hồn này sang tâm hồn khác nên người chữa bệnh có thể truyền đức tin của mình cho người bệnh. Đức tin này tạo nên phép lạ. Việc thuốc có hiệu quả hay không còn tùy thuộc vào anh ta nữa. Vì vậy, người bệnh cần trước hết một “cách suy nghĩ mới” loại bỏ mọi nỗi sợ hãi và chán nản. MB Eddy đã tiếp thu ý tưởng cơ bản này từ Quimby và phát triển nó hơn nữa.
Hệ thống giảng dạy của MB Eddy khá phức tạp. Trên từng trang sách của họ, ta có thể thấy rõ rằng học thuyết này không phù hợp với tư tưởng của Kinh Thánh, mặc dù nhiều từ trong Kinh Thánh được trích dẫn. Trong tác phẩm chính của mình “Khoa học và Sức khỏe”, bà viết rằng chúng ta chỉ cần có thái độ đúng đắn trong tâm trí thì chúng ta sẽ trở nên khỏe mạnh. Điều này có nghĩa là suy nghĩ và ý tưởng của chúng ta trở thành hiện thực. Đây là sự tự ám thị và không liên quan gì đến sự kiện trong Kinh thánh. Ở đây MB Eddy ở gần nhà trị liệu tâm lý Coué (1857-1926). Ông đã phát triển một phương pháp chữa bệnh dựa trên sự tự ám thị. Coué giải thích rằng trí tưởng tượng là động lực thúc đẩy hành động của con người. Trí tưởng tượng này phải được tăng lên để những gì con người tưởng tượng trở thành hiện thực. Thật không may, những suy nghĩ phi Kinh thánh như vậy cũng có thể được tìm thấy trong các cộng đồng Cơ đốc giáo, ví dụ: B. với Tiến sĩ người Hàn Quốc Yonggi Cho.
Thành ngữ tiếng Anh mind-healing (chữa bệnh qua tâm trí), được MB Eddy sử dụng hàng trăm lần, cần được giải thích ngắn gọn. Tâm được dịch là tâm trí, tinh thần, khả năng suy nghĩ, trí tuệ. Vì vậy, chữa lành tâm trí có nghĩa là chữa lành thông qua tâm trí và chữa lành thông qua sức mạnh của tư tưởng hoặc tinh thần. Đôi khi MBEddy cũng sử dụng thuật ngữ điều trị bằng suy nghĩ. Các học trò của bà, những người tự gọi mình là học viên, hiện đang chữa bệnh ở khắp mọi nơi trên thế giới, trực tiếp hoặc từ xa, bằng sức mạnh của “tâm trí”, bằng “sức mạnh tư duy”. Họ gọi đó là “cầu nguyện” hoặc “làm việc” cho ai đó. Những người không có năng lực ngoại cảm sẽ không thể chữa bệnh từ xa thành công. Thực hành chữa lành tâm trí nằm trong lĩnh vực ám thị (Suggestion), tự ám thị (Autosuggestion), ám thị tôn giáo và trên hết là ám thị tinh thần (ảnh hưởng trung gian từ xa).
Tôi nhận được hầu hết thông tin về phong trào chữa bệnh huyền bí này từ công tác chăm sóc linh hồn. Từ khóa “huyền bí” (occult) khiến tôi bị tấn công dữ dội.
V 13 Tại một hội nghị truyền giáo quốc tế ở Haiti, tôi đã đề cập đến công việc chữa bệnh huyền bí của Khoa học Cơ đốc trong một bài giảng. Một người tham gia tức giận nhảy dựng lên, ngắt lời tôi và giải thích rằng anh ta và em gái đã được chữa lành bởi những người theo Khoa học Cơ đốc giáo. Khi có mặt ông, đừng ai hạ thấp nhà thờ này (Khoa học Cơ đốc giáo). Sau buổi nói chuyện, một mục sư từ California đến gặp tôi và nói: “Đừng coi đây là chuyện bi thảm quá. Người đàn ông này luôn gây rắc rối ở bất cứ nơi nào anh ta đến. Ông ấy là một nhà thuyết giáo của một giáo đoàn.” Tôi trả lời: “Tôi không ngạc nhiên. Theo kinh nghiệm của tôi, tất cả những người được chữa lành bằng Khoa học Cơ đốc đều phải chịu một gánh nặng hoặc tổn thương tâm lý nào đó.”
V 14 Tôi đã trải qua một cuộc tấn công khác ở Đức. Trong một cuốn sách của mình, tôi đã nhận xét rằng đôi khi những người thực hành đảo ngược sức mạnh tinh thần của mình và gây hại cho những người mà họ muốn bức hại. Bản thân Mary Baker Eddy đã đề cập đến điều này trong các bài viết của mình. Bà gọi sự đảo ngược này của lực chữa lành thành lực phá hủy là thực hành vẽ tranh. Kẻ tấn công tôi bây giờ tuyên bố rằng anh ta không tìm thấy những suy nghĩ hay từ ngữ này trong sách của MB Eddy. Tôi ngạc nhiên về điều này nhưng không ngạc nhiên. Có những cơ đốc nhân không đọc Kinh thánh và cũng có những nhà khoa học không đọc hoặc không biết sách của sếp mình. Tôi thấy quá trình thực hành vẽ tranh được nhắc đến khoảng 15 lần trong sách của bà Eddy. Trong “Các tác phẩm khác”, bà viết ở Chương III (Điều 31): “Bức tranh tinh thần hoàn toàn trái ngược với Khoa học Cơ đốc giáo. Nghĩa là hành động theo cách gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hạnh phúc của người khác, khiến người đó bị tổn hại về mặt đạo đức, thể chất hoặc tinh thần. Đây không phải là việc sử dụng mà là việc sử dụng sai phương pháp điều trị bằng tư tưởng; đây là phương pháp thực hành vẽ tranh trong tâm trí.” Tất nhiên, bà Eddy không chấp nhận việc vẽ tranh đó nhưng bà từ chối. Tuy nhiên, tôi có đủ ví dụ về những giới hạn này bị vượt qua bởi những người thực hành.
Trong công tác mục vụ, tôi luôn phải đặc biệt quan tâm đến các học viên. Xét theo những tác động, hẳn phải có những người đàn ông trong số họ làm việc trong lĩnh vực huyền bí. Tôi đã bao nhiêu lần nghe nói rằng các nhà khoa học rời khỏi tổ chức huyền bí đều bị các học viên của họ bắt bớ.
V 15 Một học viên của Khoa học Cơ đốc đã nhận ra sai lầm của mình và tuyên bố rời khỏi. Trụ sở chính ở Boston đã nói với ông rằng ông sẽ phải hối hận về điều này. Ngay sau đó, ông mắc phải một căn bệnh ngoài da không rõ nguyên nhân mà không bác sĩ da liễu nào có thể chữa khỏi. Bệnh nhân lột da như rắn. Quá trình này được lặp lại nhiều lần. Lần thứ ba ông ấy chết. Không có bằng chứng nào cho thấy căn bệnh nghiêm trọng này là kết quả của quá trình tập luyện hội họa (lên đồng bằng vẽ tranh-ND) của sáu hoặc mười hai học viên có trình độ cao. Tôi chỉ có thể thành thật báo cáo rằng điều này cũng đã được các phong trào huyền bí khác thú nhận với tôi trong quá trình chăm sóc mục vụ. Ở Hoa Kỳ có một phong trào sử dụng “sức mạnh tâm linh” trong những trường hợp tương tự để đưa “con cừu lạc” trở về. – Tôi cũng quen thuộc với những quá trình như vậy trong phép thuật. Cũng giống như thầy bùa và pháp sư có thể chữa bệnh, họ cũng có thể gây ra bệnh tật.
V 16 Một học giả viện hàn lâm là thành viên lâu năm của Khoa học Cơ đốc. Dần dần ông nhận ra bản chất xấu xa của phong trào này và quyết định rời đi. Sau đó, người thực hành đạo đe dọa ông ta: “Anh sẽ phải hối hận vì điều này”. Tuy nhiên, vị học giả này vẫn tiếp tục tiến hành việc tách ra. Tuy nhiên, nhiều vấn đề đã phát sinh sau đó. Ông bị đau đầu khủng khiếp, mất ngủ, mắt thường xuyên chớp và ý thức kém. Ông cũng gặp nhiều bất hạnh trong kinh doanh. Vậy là lời đe dọa đã trở thành sự thật.
Việc chữa bệnh của các nhà khoa học không có điểm gì chung với việc chữa bệnh trong Kinh thánh. Khi một Cơ Đốc nhân cầu nguyện cho một người bệnh, người đó làm như vậy với thái độ: Lạy Chúa, xin ý Chúa được nên. Trong phương pháp chữa bệnh theo Kinh Thánh, quyền năng chữa lành đến từ Chúa Giê-xu Christ. Trong phương pháp chữa bệnh bằng tâm trí, nguyên nhân chính là người thực hành hoạt động trí óc. Những câu Kinh Thánh thường dùng, mọi vẻ bề ngoài đạo đức giả chỉ là ngụy trang.
Trong Khoa học Cơ đốc, chúng ta phải đối mặt với một phong trào huyền bí mà các Cơ đốc nhân phải được cảnh báo một cách quyết liệt, đặc biệt là vì Lời Chúa được sử dụng như một vật cản theo hàng ngàn cách không đúng đắn. Đôi khi các nhà khoa học công bố những báo cáo được tô điểm một cách tuyệt vời bằng những ý tưởng của Cơ đốc giáo đến nỗi những người theo đạo Cơ đốc bình thường cũng bị cuốn hút. Tôi chỉ có thể nhắc đến cuốn sách “Ánh sáng chữa lành” của Agnes Sanford. Viết rất hay, nhưng vẫn chưa hoàn toàn phù hợp với Lời Chúa.
- e) Chữa Bệnh Bằng Phương Pháp Xuất Thần
Trong nhiều chuyến hành trình truyền giáo của mình, tôi không thấy có một quốc gia nào không có người chữa bệnh bằng phương pháp ngoại cảm. Ở những quốc gia không cơ đốc, phương pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền đã trở thành hình thức chữa bệnh thông thường trong hàng ngàn năm nay. Hình thức chẩn đoán và chữa bệnh bằng trạng thái xuất thần rất phổ biến.
V 17 Ở phía nam Baden có hai anh em nhà Seiler, những người thường được gọi là “ Những người ngủ”. Khi bệnh nhân bước vào phòng khám, bác sĩ phụ trách sẽ lui vào trong phòng tối một lúc. Ở đó, anh ta đã tự đưa mình vào trạng thái xuất thần trong vài giây. Sau đó, chẩn đoán đã hoàn toàn chính xác. Hai anh em này phân phối thuốc vi lượng đồng căn (homeopathy) như một phương thuốc chữa bệnh. Khi một tín đồ Cơ đốc giáo sùng đạo cầu nguyện giữa những người đang chờ đợi trong phòng chờ, cả hai người chữa bệnh xuất thần đều cảm thấy bối rối. Những người sốt sắng về đức tin như vậy sau đó đã bị đuổi đi kèm với những lời lẽ gay gắt. Trong hồ sơ của tôi có một lá thư của anh em nhà Seiler. Đây là lá thư lâu đời nhất mà một người niệm thần chú từng gửi đến tôi.
Anh em nhà Seiler Ottenheim, ngày 5 tháng 3 năm 1933 Những người chữa bệnh Ottenheim – Baden “Kính gửi Ngài! Liên quan đến lá thư giá trị của bạn, tôi muốn trả lời ngắn gọn các câu hỏi của bạn. Tôi luôn nghĩ với lòng biết ơn Chúa đã ban cho tôi món quà này để giúp đỡ nhân loại. Tôi không thể tin rằng hoạt động của chúng ta lại đi ngược lại ý muốn của Chúa, vì chúng ta có thể nhìn lại rất nhiều thành công. Nếu bạn có dịp ghé thăm văn phòng của chúng tôi, tôi sẽ có thể cho bạn biết thêm thông tin.
Trân trọng – Seiler
Tôi đã có thể quan sát được những tác động từ chẩn đoán xuất thần của Seiler, vì nhiều người ở làng Berghausen quê tôi, cách Ottenheim 110 km, cũng đã đến tham dự giờ tư vấn của hai anh em “ngủ” này. Có lần tôi được gọi vào lúc nửa đêm để gặp một người phụ nữ đang được điều trị. Bà là người phụ nữ có thái độ tốt với nhà thờ. Bà không được chữa khỏi, nhưng đêm sau ngày điều trị, bà đã lên cơn đau dữ dội. Bà cảm thấy như mình sắp ngạt thở và chết. Toàn thân bà ấy đang nóng bừng. Sau đó bà nhận ra rằng mình đã sử dụng sai sức mạnh.
Trong chuyến đi diễn thuyết của mình tại Hoa Kỳ, tôi đã tình cờ đọc được cuốn sách “Edgar Cayce, Nhà tiên tri ngủ”. Đây là cuốn sách bìa mềm đã bán được hàng triệu bản và trở thành sách bán chạy nhất. Ngoài ra, tôi còn được chăm sóc mục vụ và thảo luận liên quan đến người đàn ông này.
V 18 Edgar Cayce là nhà trị liệu xuất thần nổi tiếng nhất nước Mỹ, được trang bị năng lực chữa bệnh và tiên tri. Ông nội của ông là một người nông dân và đã có năng lực ngoại cảm. Ông ta có thể tìm nước bằng cây gậy của mình. Edgar, cháu trai của ông, có lẽ đã thừa hưởng từ người ông này khả năng giao tiếp với các linh một cách dần dần, mà ông đã phát hiện ra khi mới bảy hoặc tám tuổi. Cha mẹ của Cayce là thành viên của một nhà thờ Trưởng lão. Edgar tham dự trường Chúa Nhật tại nhà thờ quê nhà. Sau này ông còn trở thành một trong những giáo viên trường Chúa Nhật.
Việc phát hiện ra khả năng giao tiếp với các thần linh của ông dựa trên một trải nghiệm thú vị khi ông còn trẻ. Một buổi tối, cha của Cayce nói với con trai mình: “Tối nay con phải thức khuya cho đến khi học xong bài học ở trường”. Khoảng 11 giờ đêm, cậu bé vô cùng mệt mỏi và gục đầu vào cuốn sách. Sau đó, anh nghe thấy một giọng nói: “Ngủ ngon, chúng tôi sẽ giúp anh.” Cậu ngủ thiếp đi, mười phút sau tỉnh dậy và thuộc lòng bài học trong sách từng chữ một. Tôi đã gặp khả năng thấu thị này (Clairvoyant ability, Hellseherfähigkeit) nhiều lần trong công tác chăm sóc mục vụ.
Từ năm 24 tuổi, Cayce đã trở thành tiêu điểm trên báo chí. Khi một người bệnh tìm đến lời khuyên và sự giúp đỡ của ông, Cayce sẽ nhập thần trong vài giây. Sau bốn hoặc năm giây, anh ta đã có thể nói cho vị khách biết về bệnh tình của mình. Sau đó, ông kê đơn thuốc và bệnh nhân đến hiệu thuốc để lấy thuốc. Trong một số trường hợp, ông không chỉ đưa ra chẩn đoán xuất thần mà còn đưa ra động lực chữa bệnh thông qua gợi ý tinh thần (mental suggestion). Trong trường hợp này, không cần dùng thuốc. Khi Cayce bước vào trạng thái xuất thần, ông có thể tìm ra nguyên nhân gây ra mọi căn bệnh ở một người. Khi tỉnh dậy, Cayce không biết mình đã nói gì. Nhiều khi ông thậm chí còn không thể phát âm chính xác các thuật ngữ y khoa mà ông đã sử dụng một cách chuyên nghiệp trong trạng thái xuất thần. Có lần một người Ý đã yêu cầu Cayce chẩn đoán. Trong trạng thái xuất thần, Cayce trả lời bằng tiếng Ý trôi chảy. Ông cũng trả lời bằng tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức và những ngôn ngữ khác mà ông chưa học nhưng đã được ghi lại. Những gì Cayce chẩn đoán trong trạng thái xuất thần được gọi là đọc bói.
Khi một người Mỹ cần được chữa lành hoặc giúp đỡ, họ sẽ viết thư cho “nhà tiên tri”. Cayce tập trung vào lá thư và đi vào trạng thái xuất thần. Ở trạng thái này, ông có thể nhận ra chính xác căn bệnh của người thỉnh cầu và đồng thời tác động đến họ theo cách chữa lành. Ông cũng có thể tìm thấy những đồ vật bị mất theo cách này hoặc đưa ra những dự đoán về tương lai đã trở thành sự thật. Vì ông thực hiện mọi công tác cứu trợ trong trạng thái xuất thần nên ông được gọi là “nhà tiên tri ngủ”. Về cơ bản, có hai lỗi trong thuật ngữ này. Đó không phải là giấc ngủ mà là trạng thái xuất thần. Sự khác biệt sẽ nhanh chóng được làm rõ. Khi ông đang trong trạng thái xuất thần, người ta có thể chích ông bằng kim. Ông ấy không cảm thấy điều đó. Người đang ngủ sẽ thức giấc vì những vết kim châm này. Hơn nữa, ông không phải là một nhà tiên tri mà là một pháp sư. Simon Magus và Elymas trong Sách Công vụ Tông đồ là những thuật sĩ chứ không phải là người của Chúa. Nhưng ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại hỗn loạn đến mức mọi khái niệm đều trở nên mơ hồ và ma quỷ vẫn được tôn vinh. Lập luận cho rằng Cayce đã giúp đỡ nhiều người chỉ có vẻ đúng. Ông đã gây gánh nặng cho nhiều người và làm hại đến người dân Mỹ. Tất nhiên, không thể phủ nhận những thành công trong việc chữa bệnh. Kinh Thánh cũng biết về những phép lạ của ma quỷ (Ma-thi-ơ 24:24; 2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:9).
Ngoài các hoạt động huyền bí, Cayce còn là thành viên tích cực của một nhà thờ cơ đốc. Ông có thói quen đáng khen là đọc toàn bộ Kinh thánh mỗi năm. Ông coi năng lực truyền thông của mình là món quà của Chúa Thánh Linh. Ông đã phát triển những giáo lý đặc biệt trong Kinh thánh. Ông dạy về thuyết luân hồi, quan điểm cho rằng con người được sinh ra nhiều lần để phát triển hơn nữa. Cayce cuối cùng tuyên bố rằng ông đã sống vào thời Kinh thánh cách đây 1900 năm và là cháu trai của bác sĩ Luke. Chúng ta đang đối mặt với sự kết hợp kỳ lạ giữa nghiên cứu Kinh Thánh và phép thuật. Satan có biệt tài ngụy trang thành người ngoan đạo. Thật không may, nhiều Cơ Đốc nhân cũng bị lừa dối bởi những thành công như vậy vì họ không thể phân biệt được giữa các thế lực có sức thu hút và truyền thông.
- f) Những Thầy lang Phi-líp-pin
Trong các chuyến đi diễn thuyết của mình tại Phi-líp-pin, tôi đã gặp những người chăm sóc mục vụ đã nhận được sự giúp đỡ từ những người chữa bệnh tâm linh này. Những người chữa bệnh này đã tạo dựng được tên tuổi cho mình trong nhiều năm. Họ đã tạo ra những cuộc hành hương lớn đến những nơi họ làm việc, chẳng hạn như Baguio, nơi được gọi là Thành phố của những người chữa bệnh. Từ Châu Âu và Hoa Kỳ có các nhóm bác sĩ và học giả khác đến tìm những người chữa bệnh này. Một số người tin rằng đây là cách chữa bệnh là của thần thánh vì những người chữa bệnh có Kinh thánh, tràng hạt, thánh giá và bàn thờ nhỏ tại nhà và tự nhận mình là người Công giáo ngoan đạo. Hầu hết những người chữa bệnh người Phi-líp-pin đều thuộc Hiệp hội Cơ đốc giáo tâm linh Phi-líp-pin (Union Espiritista Christiana de Filipinas). Nhưng sự kết hợp này là không thể. Hoặc chúng ta là cơ đốc nhân hoặc chúng ta là người theo thuyết thông linh. Sự pha trộn của hai lực đối nghịch này là không thể nếu không chúng ta sẽ phải chịu tổn thương nghiêm trọng về mặt tinh thần.
V 19 Ở Phi-líp-pin, tôi đã ghi lại các báo cáo của một bác sĩ phẫu thuật ngoại cảm (Astral Surgeons). Theo niềm tin của những người theo thuyết tâm linh, con người không chỉ có cơ thể vật chất mà còn có cơ thể tinh thần (tâm linh). Người Phi-líp-pin thực hiện các ca phẫu thuật giả trên thể vía của bệnh nhân, nhưng không cần dụng cụ. Ông tự đưa mình vào trạng thái bán xuất thần và thực hiện các động tác bằng tay trên bệnh nhân như thể đang thực hiện một ca phẫu thuật thông thường. Những bệnh nhân được chữa khỏi khẳng định rằng ông có thể cắt bỏ ruột thừa hoặc túi mật theo cách này mà không cần phải rạch mở thành bụng. Một người phụ nữ được chẩn đoán bị sỏi mật bằng chụp X-quang đã được bác sĩ phẫu thuật này điều trị. Sau đó, chụp X-quang cho thấy sỏi đã biến mất. Trong trường hợp này chúng ta sẽ có một loại ứng dụng tâm linh trước mắt chúng ta. Ứng dụng (Apport) có nghĩa là xuất hiện và biến mất trong không gian kín. Nó cũng có thể là một quá trình phi vật chất hóa. Vật chất bị phân hủy và hòa tan.
Tôi đã có hai lời sám hối liên quan đến hoạt động của người Phi-líp-pin này. Một sinh viên đã trải qua “cuộc phẫu thuật ma” như vậy đã trở về với chứng trầm cảm nặng. Anh chàng bị ám ảnh bởi ý định tự tử, hoàn toàn thờ ơ và không thể tiếp tục học tập. Đầu tiên, anh ta tham khảo ý kiến của một nhà trị liệu tâm lý, người này không thể làm gì cho anh ta. Nhà trị liệu đã gửi học sinh đến gặp tôi. Tôi đã cố gắng chỉ cho anh ấy con đường đến với Chúa Jesus và sự giải thoát. Nó không có tác dụng. Tâm hồn anh như thể đã hóa đá.
Bệnh nhân thứ hai của người Phi-líp-pin này đến gặp tôi là một phụ nữ Thụy Sĩ sùng đạo. Bà đã bị bệnh nhiều năm và muốn đi du lịch Phi-líp-pin vì những báo cáo chữa bệnh kỳ diệu. Cả bà và gia đình đều cầu nguyện rất nhiều cho chuyến đi và quá trình điều trị này. Người thầy lang người Phi-líp-pin không thể làm gì cho bà ấy. Lời cầu nguyện đã ngăn cản ông ta.
- g) Bác sĩ phẫu thuật xuất thần
Từ Phi-líp-pin, chúng tôi đến Brazil, một đất nước tôi đã đến thăm chín lần. Một số chuyến thuyết trình của tôi được Mục sư Braun chuẩn bị. Ông ấy thường chở tôi đến những địa điểm đó bằng xe của ông ấy. Trong chuyến đi này, chúng tôi cũng đi qua Belo Horizonte, nơi Arigo làm việc, làm một bậc kỳ tài phẫu thuật theo thuyết tâm linh. Những gì Arigo đã thực hiện là một chuỗi phép lạ – mặc dù là phép lạ của ma quỷ. Bản thân Giáo hội Công giáo gọi ông là người chữa bệnh theo thuyết tâm linh, mặc dù Arigo thuộc Giáo hội Công giáo.
V 20 Tại thị trấn Belo Horizonte nói trên, một phép màu phẫu thuật đáng kinh ngạc do Arigos thực hiện đã diễn ra. Thượng nghị sĩ Lucio Bittencourt đã tổ chức một buổi nhóm bầu cử, Arigo và bạn bè của ông từ Cogonhas cũng đã đến đó. Bittencourt bị ung thư phổi và dự định sau sự kiện bầu cử sẽ đến Hoa kỳ để phẫu thuật. Thượng nghị sĩ và Arigo ở cùng một khách sạn. Vào ban đêm, Bittencourt đột nhiên nhìn thấy Arigo trong phòng mình với một con dao cạo trên tay. Ông vẫn còn nghe thấy lời của Arigo: “Ông đang gặp nguy hiểm lớn.” Sau đó ông ấy mất đi ý thức. Khi tỉnh lại, ông cảm thấy tình trạng của mình đã thay đổi. Ông bèn bật đèn và phát hiện những cục máu đông trên áo choàng ngủ của mình. Ông ấy cởi áo choàng và nhìn phần thân trên của mình trong gương. Anh ấy nhận thấy một vết cắt nhỏ trên ngực. Biết về khả năng chữa bệnh của Arigo, ông ta chạy vào phòng Arigo và hỏi: “Ông đã phẫu thuật cho tôi phải không?” – “Không, chắc là ông uống nhiều quá rồi.” Thượng nghị sĩ trả lời: “Tôi cần biết chính xác. Tôi sẽ lên chuyến bay tiếp theo và tới gặp bác sĩ ở Rio.” Bittencourt chỉ giải thích với bác sĩ rằng anh đã trải qua phẫu thuật. Chuyên gia chụp X-quang và xác nhận: “Đúng vậy, ông đã được phẫu thuật theo đúng quy định của phẫu thuật Hoa Kỳ. Chúng tôi chưa đạt đến giai đoạn đó ở Brazil.” Chỉ đến lúc đó, thượng nghị sĩ mới giải thích những gì đã xảy ra. Câu chuyện này đã gây chấn động lớn trên các tờ báo và thu hút rất nhiều du khách đến “phòng khám” của Arigo.
Các bác sĩ, nhà báo, quay phim người Mỹ đã đến, họ tiến hành đủ loại xét nghiệm mà không phát hiện ra bất kỳ gian lận nào. Arigo đã sẵn sàng cho mọi thử thách. Ông cũng “phẫu thuật” dưới máy quay phim đang chạy. Một bác sĩ người Mỹ, Thậm chí một khối u mỡ (u lành) còn được cắt bỏ cho tiến sĩ Puharich. Ca phẫu thuật được thực hiện bằng một con dao gỉ sét mà không gây tê tại chỗ hoặc khử trùng. Tiến sĩ Puharich cũng không cảm thấy đau đớn. Quy trình này cũng được thực hiện trong khi máy ảnh đang chạy.
Bản chất của những can thiệp phẫu thuật kỳ lạ này là gì? Arigo, một công nhân không có bất kỳ đào tạo y khoa nào, thực hiện tất cả các hoạt động này trong trạng thái xuất thần. Ông ta tự nhận mình là hồn ma của một bác sĩ người Đức, Tiến sĩ. Adolph Fritz đang khiến ông “bị chiếm hữu”. Tuyên bố này gây hiểu lầm vì không có bác sĩ người Đức nào thực hiện các ca phẫu thuật như vậy mà không gây mê và khử trùng bằng một con dao gỉ sét và có thể thực hiện ca phẫu thuật phổi bằng con dao đó chẳng hạn. Các vết mổ của Arigo lành rất nhanh, ngay cả khi không cần khâu. Mặt khác, không có bác sĩ nào trên thế giới có thể đưa ra chẩn đoán chính xác từ xa mà không cần khám bệnh. Khi Arigo đang trong trạng thái xuất thần, anh ta sẽ ngay lập tức đưa ra chẩn đoán chính xác cho từng vị khách. Đây được gọi là chẩn đoán bằng năng lực ngoại cảm, mà chúng ta chỉ tìm thấy ở những nhà ngoại cảm mạnh nhất.
Arigo không gì khác hơn là một sự bị quỷ chiếm hữu. Lòng mộ đạo không thể giúp chúng ta vượt qua điều này. Arigo có một tấm biển trên cửa trước nhà: “Ở ngôi nhà này, tất cả chúng tôi đều là người Công giáo.” Trong các ca phẫu thuật tại nhà, ông đặt bệnh nhân dưới bức ảnh Chúa Jesus và câu nói “Nghĩ đến Chúa Jesus (Pense em Jesus)”. Trước khi bắt đầu công việc vào buổi sáng, ông thường cầu nguyện Kinh Lạy Cha. Bối cảnh đạo đức này đánh lừa du khách. Chính những tác dụng phụ tàn phá này khiến tôi phải đưa ra cảnh báo mạnh mẽ nhất. Những sự chữa lành kỳ diệu này được trả giá cho ma quỷ bằng việc mất đi sự cứu rỗi của linh hồn. Nói thêm là, sau đó vị thượng nghị sĩ đã thiệt mạng trong một vụ tai nạn máy bay và Arigo thì trong một vụ tai nạn xe hơi. Một hiện tượng thường gặp nữa là những người bị ma thuật chiếm hữu hoặc thậm chí bị quỷ ám thường gặp phải tai nạn chết người. Tôi có nhiều ví dụ như vậy trong hồ sơ của mình. – Chúng ta không muốn được cảnh báo sao?
- h) Những người chữa bệnh bằng đức tin
Các phong trào chữa bệnh tâm linh là một trong những nhu cầu lớn nhất của cộng đồng Cơ đốc giáo ngày nay. Bài viết này nói về những người ân tứ và cái gọi là ân tứ. Cả hai đều không tương thích. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa phép lạ trung gian (đồng bóng) và phép lạ thần thánh (medial and divine miracles) thường chỉ có thể thực hiện được nếu có khả năng phân định các linh. Về cơ bản, điều quan trọng là phải nhận ra bản chất của các lực lượng trung gian (truyền thông linh, media forces). Đầu tiên, thuật ngữ “trung gian” (medial: đồng bóng, truyền thông linh) cần được giải thích. Về mặt ngữ văn, thuật ngữ “trung gian” (medial: đồng bóng, truyền thông linh) xuất phát từ tiếng Latin: medium = phương tiện, ở giữa, đóng vai trò trung gian. Thuật ngữ này cũng được dùng cho những người liên lạc theo thuyết tâm linh. Phương tiện “trung gian” (medial: đồng bóng, truyền thông linh) thiết lập mối liên hệ giữa các thế lực, các cõi giới, các linh chưa biết đến và chúng ta. Năng lượng được giải phóng được gọi là năng lượng trung gian. Kiến thức về ngoại cảm, một phần trong nền tảng hiểu biết ABC ở thế giới phương Đông, lại bị nghi ngờ ở thế giới phương Tây. Điều này cũng là do thực tế là ở thế giới phương Đông, hơn 90% người dân am hiểu phương tiện “đồng bóng” (medial: trung gian, truyền thông linh), trong khi ở thế giới phương Tây chỉ có khoảng 10%.
Sự giao tiếp bằng tâm linh có thể phát sinh theo ba cách: thông qua sự truyền tải, thông qua các thí nghiệm ma thuật hoặc tâm linh, thông qua thừa kế.
V 21 Một ví dụ nổi tiếng về sự chuyển tải qua trung gian (đồng bóng) là nhà thuyết giáo chữa bệnh Oral Roberts. Ông ấy có khả năng ngoại cảm rất cao và đã nói trước mặt tôi ở Berlin vào năm 1966: “Tôi bị bệnh khi còn nhỏ và được một ông già người Ấn Độ chữa khỏi. Kể từ đó, tôi đã có được món quà chữa lành cho bản thân mình.” Sự chuyển giao và thử nghiệm huyền bí đều là tội lỗi và gánh nặng áp chế, ngay cả khi đôi khi nó xảy ra do sự thiếu hiểu biết.
Ngược lại, khả năng đồng bóng (trung gian với người chết) là hậu quả muộn của tội lỗi phù thủy của tổ tiên. Dạng bệnh lý trung gian này thường không được người bệnh nhận thức rõ. Ban đầu, điều này cũng không cấu thành tội lỗi, vì, ví dụ, cháu trai không thể chịu trách nhiệm về những gì ông nội mình đã làm. Trên thực tế, quyền thừa kế trung gian (đồng bóng) thường kéo dài đến thế hệ thứ tư và do đó là sự ứng nghiệm của điều răn đầu tiên. Mặc dù chúng không đại diện cho tội lỗi trực tiếp, nhưng chúng vẫn là gánh nặng. Bất kỳ ai thực hành phương pháp giao tiếp trung gian (đồng bóng) này một lần nữa sẽ thấy đó là tội lỗi. Khả năng giao tiếp với linh hồn được thừa hưởng cũng không phải là ma quỷ, nhưng nó có nghĩa là cánh cửa mở ra cho những ảnh hưởng của ma quỷ. Nhưng nó sẽ trở thành gánh nặng ma quỷ khi được thực hành. Vì lý do này, người Cơ Đốc khi phát hiện ra di sản như vậy nên cầu xin Chúa cất đi và thay vào đó ban cho mình quyền năng của Đức Thánh Linh. Tuy nhiên, thật tệ khi các môn đồ của Chúa Jesus một ngày nào đó phát hiện ra khả năng ngoại cảm của mình và sau đó cho rằng họ là những năng lực đặc biệt được Chúa Thánh Linh ban cho.
Việc đánh giá những người chữa bệnh bằng đức tin là một phần công việc của chức vụ canh gác của Hội Thánh Chúa Jesus Christ. Có ba người đàn ông mà tôi có thể đích thân theo dõi: Branham, Hicks, Zaiss. Điểm chung của cả ba là tổ chức các cuộc tụ họp tôn giáo lớn sau đó là các buổi nhóm chữa bệnh. Những gì tôi muốn nói về ba người đàn ông này không phải là lời phán xét hay chỉ trích ác ý. Trong nhiều năm, tôi đã cẩn thận thu thập mọi tài liệu có sẵn về ba nhà thuyết giáo chữa bệnh này, đọc mọi ấn phẩm ủng hộ họ và phản đối họ, tự mình lắng nghe họ, xác minh việc chữa bệnh của họ và so sánh mọi thứ với Kinh thánh. Tôi chỉ quan tâm đến việc giữ lời Kinh Thánh: “chớ tin cậy mọi thần, nhưng hãy thử cho biết các thần có phải đến bởi Đức Chúa Trời chăng” (1Giăng 4:1) Không thể trình bày hết tất cả tài liệu mà tôi có ở đây. Do đó, chỉ đưa ra một vài gợi ý.
William Branham chắc chắn là người có nhiều vấn đề nhất trong ba người này. Nó có đặc tính bói toán, chữa bệnh bằng từ trường, từ tính (healing magnetic, magnetopathic), đặc tính ma thuật và cả đặc tính trong Kinh thánh. Mọi thứ đều được bao phủ bởi những từ ngữ cơ đốc giáo. Ông mang theo một số gánh nặng huyền bí từ cha mẹ mình, những người xem bói. Tại Karlsruhe, ông tuyên bố: “Tôi đã là người có tầm nhìn (khải tượng) ngay từ khi sinh ra.” Tôi là người chứng kiến tận mắt tuyên bố này. Một sự thật trong Kinh thánh đang bị bỏ qua ở đây. Những ân tứ thuộc linh (charismata) không được ban cho thông qua sự sinh ra tự nhiên mà thông qua sự tái sinh. Trường hợp điển hình sau đây xảy ra ở Zurich.
V 22 Branham gọi một thanh niên lên bục. Cuộc trò chuyện diễn ra như sau: “Chúng ta vẫn chưa biết nhau.” “Không,” chàng trai trẻ trả lời. “Anh đang mang theo lá thư của một cô gái trẻ trong túi áo khoác.” “Đúng.” “Có một bức ảnh của tôi trong lá thư.” “Đúng vậy.” “Cho xem hình ảnh.” Chàng trai trẻ lấy nó ra. Sau đó, Branham giơ bức ảnh lên và hỏi khán giả: “Tôi không phải là tiên tri của Chúa sao?” Câu trả lời là tiếng reo hò vang dội Hallelujah. Chúng ta hỏi: “Liệu một chuyện bói toán là bằng chứng của lời tiên tri sao?”
Ở đây bói toán bị nhầm lẫn với tiên tri. Bói toán đến từ các thế lực bên dưới (Công vụ 16: 16Một ngày kia, chúng ta đi cầu nguyện, gặp một đứa đầy tớ gái bị quỉ Phi-tôn [tức là ma-quỉ hay bói-khoa]Phi-tôn tức là ma-quỉ hay bói-khoa ám vào, hay bói khoa, làm lợi lớn cho chủ nó.) Lời tiên tri đến từ sự soi dẫn của Đức Thánh Linh (Công vụ 21:11 Người đến thăm chúng ta, rồi lấy dây lưng của Phao-lô trói chân tay mình, mà nói rằng: Nầy là lời Đức Thánh Linh phán: Tại thành Giê-ru-sa-lem, dân Giu-đa sẽ trói người có dây lưng nầy như vậy, mà nộp trong tay người ngoại đạo). Hơn nữa, tại sao Branham lại quan tâm đến việc chứng minh khả năng tiên tri của mình? Hơn nữa, mục đích của phong tục tôn sùng (ngoại giáo, vật chất, ma thuật) là chúc phước cho một hộp đầy khăn giấy và phân phát chúng cho người bệnh là gì? Điều này thực sự không liên quan gì đến Công vụ. 19, 12 (đến nỗi người ta lấy khăn và áo đã bận vào mình người mà để trên các kẻ đau yếu; thì họ được lành bệnh, và được cứu khỏi quỉ dữ.). Tại sao Branham lại kiệt sức như một thỏi nam châm chữa lành sau những bài giảng của mình? Chúa Giêsu và các môn đồ của Người không bị dẫn đi trong tình trạng loạng choạng và kiệt sức sau khi chữa lành người bệnh bằng thẩm quyền của Đức Chúa Trời. Tại sao công việc chữa lành của Branham lại bị cản trở bởi những anh em cầu nguyện trong đám đông? Trong những trường hợp như vậy, ông đã hai lần tuyên bố: “Có những luồng ý kiến trái chiều”. Branham không biết rằng chúng tôi có một nhóm cầu nguyện hòa nhập với những người đang tìm kiếm sự chữa lành, những người đang kêu cầu Chúa để được sáng tỏ. Mỗi lần như vậy, Branham đều ngay lập tức bị ngăn cản không cho làm bất cứ điều gì. Vì vậy, ông ấy phản ứng giống như những người tà giáo cầu nguyện chữa bệnh cho một người ngồi trong buổi tư vấn của họ. Có rất nhiều bằng chứng – không thể liệt kê hết ở đây – để có thể đưa ra kết luận rõ ràng: Branham có thể tiếp với những khả năng thông linh (trung gian, đồng bóng).
V 23 Tại Karlsruhe, một nhà ngoại cảm từng theo thuyết duy linh đã đến đây nhiều lần để xin tư vấn mục vụ. Bà ấy muốn theo Chúa và đã từ bỏ mọi hoạt động thông linh trước đây. Thật không may, bà vẫn đang phải đấu tranh với khuynh hướng trung gian (đồng bóng, thông linh) trước đây của mình. Trong buổi thảo luận, bà ấy giải thích với tôi: “Tôi đã nghe cả ba người chữa bệnh bằng đức tin: Branham, Hicks và Zaiss. Tôi đã liên lạc ngay với giới truyền thông với cả ba người, nhanh nhất là với Branham.” Bà nói thêm: “Với ông, tôi không nhận được liên lạc trung gian.” Tôi trả lời bà, “Cảm ơn Chúa vì bà không có bất kỳ liên lạc trung gian nào với tôi.” – Trải nghiệm tương tự cũng xảy ra ở Munich. Trong một buổi thuyết trình giáo dục, một người phụ nữ đã đến văn phòng cố vấn và nói với tôi rằng bà đã ngay lập tức thiết lập được mối liên hệ thông linh với ba nhà chữa bệnh vĩ đại.
Branham đã đến với Chúa khi còn trẻ và không hề biết rằng mình đã mang theo những khả năng đen tối, khả năng ngoại cảm này vào hành trình theo Chúa Jesus. Ngày nay, giống như những người theo ông, ông nhầm lẫn những khả năng này với các ân tứ thuộc linh. Chức vụ của ông có tác động gây chia rẽ, khó hiểu và cuồng tín trong các cộng đồng Cơ đốc giáo. Ông ta chính là loại người cuồng tín mà cơ đốc nhân phải cảnh báo. Tâm lý bầy đàn có nhiều điểm chung với các phong trào huyền bí. Điều này được phản ánh qua các hiệu ứng. Việc đặt tay lên người ta theo kiểu tâm linh thường có tác dụng phụ giống như bùa chú huyền bí. Điều đáng chú ý là ngay cả những người đàn ông Mỹ sùng đạo như Billy Graham cũng xa lánh Branham và phong trào của ông.
V 24 Một người phụ nữ đã tham dự buổi chữa bệnh của Branham ở Zurich. Branham giải thích với cô ấy, “Tôi thấy có một ánh sáng phía trên cô. Một thiên thần đang tiến về phía cô. Cô sẽ khỏe lại thôi.” Người phụ nữ đã cầu nguyện trong lúc Branham chữa lành. Sau đó, sức khỏe của cô không những không cải thiện mà còn xấu đi. Trong nhiều tuần, cô bị dày vò bởi những nghi ngờ nghiêm trọng. Cuối cùng, nỗi tuyệt vọng sâu sắc đã thôi thúc cô ấy nói chuyện với tôi.
V 25 Branham đã đưa ra lời thách thức trong một buổi nhóm chữa lành: “Bất kỳ ai tin rằng tôi là tiên tri của Thượng Đế thì hãy trả lời là có.” Một Mục sư có mặt đã thực hiện theo yêu cầu này. Sau đó, vị Mục sư này đã ngất xỉu trên đường về nhà. Ông ta nôn mửa và bị xuất huyết. Bệnh viện không thể tìm ra nguyên nhân gây ra tình trạng kỳ lạ này. Vị Mục sư trở nên chán nản và đau khổ trong lòng suốt nhiều tuần. Những khó khăn và cám dỗ về tôn giáo của ông kéo dài trong nhiều tháng.
William Branham cuối cùng đã phát triển thành một nhà ngoại cảm có năng lực mạnh mẽ (spiritualist medium, phương tiện trung gian, đồng bóng).
V 26 Branham đã nói với mục sư Ruff, người phiên dịch của mình cách đây nhiều năm, “Nếu thiên sứ của tôi không đưa ra dấu hiệu, tôi không thể chữa lành được.” Vì Ruff liên tục quan sát những điều liên quan đến tâm linh trong mục vụ của Branham nên ông đã rời bỏ ông. Cái gọi là “thiên thần” của Branham này là một linh ma quỷ dưới hình dạng ánh sáng. Ở đây chúng ta phải đối mặt với sự thật rằng ma quỷ xuất hiện dưới hình dạng ánh sáng (2 Cô-rinh-tô 11:14Nào có lạ gì, ngay cả Sa-tan cũng mạo làm thiên sứ sáng láng (BHĐ)).
Trong khi Branham với tư cách là cơ đốc nhân, hoạt động rất tích cực trên phương tiện truyền thông linh (trung gian, đồng bóng), thì Tommy Hicks, ngoài các yếu tố Cơ đốc giáo, còn có khả năng gợi ý mạnh mẽ (suggestive abilities, ám thị). Nhiều tác dụng chữa bệnh của nó xảy ra ở mức độ gây sốc về mặt tâm lý.
V 27 Một học giả được đào tạo về tâm lý bị liệt mãn tính. Sau khi được Hicks điều trị, tình trạng tê liệt đã thuyên giảm. Trong vòng ba tuần, căn bệnh cũ liên tục tái phát. Bản thân bệnh nhân mô tả sự cải thiện tạm thời này là tác dụng của liệu pháp sốc gợi ý | ám thị (suggestive shock therapy). Những gợi ý của Hicks (ảnh hưởng về mặt tinh thần) bị nhầm lẫn với các ân tứ thuộc linh vì chúng được dùng trong các lời nói và lời cầu nguyện của Cơ Đốc nhân, giống như của Branham. Tuy nhiên, nhìn chung, theo ý kiến của nhiều anh em, Hicks không có vẻ nham hiểm như Branham. Tuy nhiên, ông ta thuộc nhóm người có tư duy bầy đàn.
V 28 Một mục sư người Thụy Sĩ đã tham dự buổi nhóm chữa bệnh của Hicks. Ông ra lệnh cho những người bệnh đang chờ đợi: Bất cứ ai tin rằng Chúa Giê-xu có thể chạm vào mình thì hãy đặt tay lên phần cơ thể bị bệnh của mình. Một luồng sức mạnh chữa lành sẽ chảy qua tất cả họ. Vị Mục sư đã tuân theo yêu cầu. Ba tuần sau, ông ấy đến gặp tôi để thảo luận và kể rằng ông ấy đã trải qua những cám dỗ nghiêm trọng trong ba tuần đó và tạm thời mất đi sự chắc chắn về đức tin. Với ông, rõ ràng đây không phải là một sự kiện theo Kinh thánh. Những hậu quả mà ông phải gánh chịu sẽ khiến ông nghi ngờ về khả năng chữa bệnh kỳ lạ này.
V 29 Hicks người chữa bệnh bằng đức tin đặt tay lên một đứa trẻ bị lác mắt. Sau quá trình điều trị chữa bệnh này, cha mẹ bé đã đến tham vấn mục vụ và giải thích rằng đứa trẻ không thể ngủ được kể từ đó. Nó sẽ nằm trong cũi với đôi mắt mở suốt đêm. Cha mẹ cậu bé liên hệ những hiện tượng kỳ lạ này với việc Hicks đặt tay lên người cậu bé.
V 30 Một người phụ nữ bị đau dữ dội đã tham dự buổi nhóm của Hicks. Bà ấy ở lại để điều trị y tế. Hicks yêu cầu bệnh nhân tạo thành một chuỗi bằng nối vòng tay. Người phụ nữ ốm yếu, kể lại cho tôi, đã làm theo yêu cầu. Bà cũng nhận được sự đặt tay của một trong những nhân viên của Hicks. Kết quả là, bà phải nằm trên giường suốt ba tuần và phải chịu đựng cảm giác bồn chồn và trầm cảm kỳ lạ. Sự chắc chắn của đức tin trước đây đã hoàn toàn biến mất.
Chúng tôi cũng gặp rất nhiều rắc rối trong việc đánh giá phong trào chữa lành của Hermann Zaiss. Cần lưu ý trước rằng Zaiss không hề được xếp ngang hàng với Branham và Hicks. Bản thân Zaiss cũng bày tỏ mối quan ngại về cách làm việc của những người đàn ông này. Việc chữa bệnh của ông không phải ở cấp độ y khoa mà ở cấp độ tôn giáo gợi ý (religious-suggestive level). Zaiss cũng không hoàn toàn đồng ý với phong trào Ngũ Tuần. Tuy nhiên, chủ yếu những người trong giới này là những người theo ông. Việc đánh giá tác phẩm của ông dao động giữa hai thái cực. Những người theo ông coi ông là nhà truyền giáo vĩ đại nhất của Đức và trong một số trường hợp, họ chiến đấu cuồng nhiệt vì mục đích của ông bằng mọi cách có thể. Những người khác muốn nhận ra những sự kiện phi Kinh thánh trong phong trào này.
Trong cơn lũ chấp thuận và bác bỏ này, chúng ta phải tìm ra một lập trường khách quan theo Kinh Thánh. Tôi có thể sử dụng các tài liệu sau đây để đánh giá: bản ghi chép ngắn gọn các bài giảng, một bài giảng mà tôi đã tự nghe và các buổi nhóm chữa lành mà tôi đã chứng kiến, hai cuộc trò chuyện với ông Zaiss diễn ra trong tinh thần anh em, nhẹ nhàng và sự chăm sóc mục vụ tại nhiều thành phố cho những người không được chữa lành thông qua Zaiss. Ngoài ra còn có tài liệu do bạn bè sưu tầm.
V 31 Một bác sĩ giải thích với tôi: “Ông Zaiss đã truyền cảm hứng cho tôi theo Chúa Giê-xu” – Một giáo viên đã báo cáo rằng ông đã nhận được động lực để cải đạo tại một buổi nhóm của Zaiss.
Những lời chứng này được coi trọng và cho thấy rằng Chúa có thể cứu con người ngay cả khi họ đi sai đường. Điều này tương ứng với sự vĩ đại và quyền năng của ân sủng của Ngài, không có giới hạn. Thật không may, trong công tác mục vụ của mình, tôi nhận thấy những người nhận được động lực thực sự từ phong trào Zaiss thường có mối liên hệ cá nhân mạnh mẽ với Zaiss. Họ khó có thể lắng nghe một người khác làm việc cho nước Trời. Trên hết, họ không thể chịu đựng được những lời chỉ trích dù là nhỏ nhất. Có một chút gì đó cuồng tín trong đạo Cơ đốc của họ. Người giáo viên mà tôi đã nhắc đến ở trên đã có thể nhận ra điều này nhờ ân điển của Chúa. Để thoát khỏi sự hẹp hòi cuồng tín này và tìm ra con đường đi đến sự bao la của Kinh thánh, ông đã tách khỏi Zaiss.
Có những yếu tố trong Kinh thánh và phi Kinh thánh trong phong trào Zaiss. Lời loan báo này đến được với những người ở xa và những người ngoài cuộc, những người mà Giáo hội và các cộng đồng gặp khó khăn hoặc không thể tiếp cận được. Hơn nữa, lời kêu gọi chữa lành toàn thể con người có thể làm rung chuyển cộng đồng cơ đốc giáo. Người ta thường quên rằng evangelizesthai = truyền giáo trong Tân Ước bao gồm nhiệm vụ kép là “cứu rỗi và chữa lành”. Có một mối quan ngại thực sự ở đây. Tuy nhiên, cách mà mối quan tâm này được thể hiện trong phong trào Zaiss không còn có thể được coi là phù hợp với Kinh thánh nữa. Tôi đã phải tự mình khám phá xem có bao nhiêu sự giật gân, ám thị và sự chập mạch, vì vậy chúng ta chắc chắn phải nói về sự chữa lành ám thị ở đây. Nhưng Đức Thánh Linh không cho phép lửa lạ xen vào công việc thiêng liêng. Giá mà Chúa Giê-xu có thể làm cho phong trào này có thể hoàn toàn tuân theo dòng Kinh Thánh.
- i) Những Hiện Tượng Giả Ân Tứ Và Chữa Bệnh
Kinh thánh nói rõ về thời kỳ cám dỗ sai lạc sắp đến. Điều này phù hợp với tình hình thế giới hiện tại của chúng ta. Sự đánh lạc hướng và tự lừa dối là đặc điểm của thời đại chúng ta. Quyền lực cám dỗ nhắm vào con người là một tạo vật có tâm linh, tâm hồn và thể xác (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:23).
Người trí tuệ sẽ khuất phục trước sự cám dỗ trong lĩnh vực trí tuệ. Ông trở thành nạn nhân của các triết lý đương thời và xu hướng tâm linh sai lầm. Thần học tân duy lý (neo-rationalist theology) cũng nằm trong phạm trù này. Nó phủ nhận mọi thứ không phù hợp với lý trí con người.
Người chủ nghĩa duy vật dễ bị cám dỗ trong việc hưởng thụ cuộc sống. Tình dục là từ ngữ thần kỳ của người ấy.
Người ngoan đạo sẽ khuất phục trước sự cám dỗ trong lĩnh vực tôn giáo. Chính Chúa Giê-su đã tiên đoán rằng sẽ có những Đấng Christ giả xuất hiện, thực hiện những dấu kỳ và phép lạ của ma quỷ và do đó lừa dối nhiều người (Ma-thi-ơ 24: 4, 11, 24). Ngày nay, có những nhóm Cơ đốc đáp ứng mong muốn chân thành về những phước lành mới bằng cách nói nhiều về các ân tứ thuộc linh. Các ân tứ thuộc linh thì có – chắc chắn là có – nhưng chúng phải là các ân tứ thuộc linh chân thật (1 Cô-rinh-tô 12:7-11) chứ không phải là sự bắt chước về mặt tâm linh hay thậm chí là ma quỷ.
Tin đồn về tâm lý không phải là sức mạnh và món quà của Chúa Thánh Linh. Thật không may, cái gọi là Phong trào Ân tứ đang lan rộng khắp thế giới ngày nay không mang đặc điểm của một cuộc phục hưng ân tứ thực sự, mà đúng hơn là một đại dịch tâm lý, được xây dựng trên tiềm thức của một người theo đạo hoặc thậm chí là một tín đồ. Cũng cần phải nói rõ rằng, bên cạnh tất cả những luồng tư tưởng phi Kinh Thánh, vẫn có rất nhiều con cái trung thành của Chúa, chỉ không may là thiếu ơn phân định các linh, nếu không thì họ đã sớm rời khỏi trại này rồi. Điểm khởi đầu rất dễ hiểu đối với những người theo Phong trào Ân tứ. Các nhà thờ lạnh lẽo với hoạt động truyền thống và không có linh, không thể thỏa mãn được cơn đói tâm linh của nhiều Cơ Đốc nhân. Nếu cơn đói và cuộc tìm kiếm này nằm trong khuôn khổ Kinh thánh, phong trào này sẽ mang lại phước lành cho Cơ đốc giáo. Nhưng cái gọi là phong trào ân tứ này đã lan tỏa vào một lưu vực rộng lớn của các biểu hiện quyền lực và sự bất thường mang tính tôn giáo, cuồng loạn, thôi miên và huyền bí. Sự thức tỉnh giả tạo này đã trở thành mối đe dọa và sự hoang mang trên toàn thế giới đối với những Cơ Đốc nhân chân chính. Những người giả danh ân tứ là thành phần ưu tú, là đội tiên phong của Satan, muốn lợi dụng họ để tấn công vào cốt lõi tốt nhất của Hội thánh Chúa Jesus. – Trong thời buổi hỗn loạn này, chúng ta không những có quyền mà còn có bổn phận phải xem xét mọi phong trào dưới ánh sáng của Kinh Thánh: “1Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ tin cậy mọi thần, nhưng hãy thử cho biết các thần có phải đến bởi Đức Chúa Trời chăng; vì có nhiều tiên tri giả đã hiện ra trong thiên hạ” (1 Giăng 4:1).
Nghiện phép lạ rất nguy hiểm cho đời sống đức tin. Những ai chỉ muốn bước đi trên cao thì một ngày nào đó sẽ phải ngã. Kim cương chỉ được hình thành trong tự nhiên dưới nhiệt độ và áp suất cực lớn. Người Cơ Đốc cần áp lực của cuộc sống hằng ngày, áp lực của sự cám dỗ, áp lực của những hoàn cảnh khó khăn, nếu không họ sẽ mất đi chiều sâu của mình.
Phép lạ không rõ ràng. Chúng có thể được thực hiện từ bên trên và cả từ bên dưới. Không chỉ có Đức Thánh Linh, mà cả Satan cũng lập ra những dấu hiệu và làm phép lạ. Quyền năng kỳ diệu của Satan và các tiên tri giả được đề cập trong Ma-thi-ơ 24: 24Vì nhiều christ giả và tiên tri giả sẽ dấy lên, làm những dấu lớn, phép lạ, nếu có thể được thì họ cũng đến dỗ dành chính những người được chọn; Mác 13:22; 2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:8-9 Bấy giờ kẻ nghịch cùng luật pháp kia sẽ hiện ra, Đức Chúa Jêsus sẽ dùng hơi miệng Ngài mà hủy diệt nó, và trừ bỏ nó bởi sự chói sáng của sự Ngài đến. 9 Kẻ đó sẽ lấy quyền của quỉ Sa-tan mà hiện đến, làm đủ mọi thứ phép lạ, dấu dị và việc kỳ dối giả; Khải huyền 13, 13Nó làm những phép lạ lớn, đến nỗi khiến lửa từ trên trời rơi xuống đất trước mặt người ta.; 16, 14Đó là những thần của ma quỉ, làm phép lạ và đi đến các vua trên khắp thế gian, để nhóm hiệp về sự chiến tranh trong ngày lớn của Đức Chúa Trời toàn năng.
Moses đã nhận được một món quà kỳ diệu từ trên trời. Những kẻ thù của ông, các pháp sư Ai Cập, có một sức mạnh kỳ diệu từ bên dưới (Xuất Ê-díp-tô Ký 7-8). Phi-e-rơ và Giăng có thẩm quyền từ trên cao. Các pháp sư Simon Magus và Elymas, mụ phù thủy Ên-đô-rơ và thầy bói ở Philipp đều có kỹ năng và thiết bị từ bên dưới. Để khám phá khu rừng kỳ quan giả mạo, chúng ta cần những thiết bị sau:
– Được tái sinh qua Đức Thánh Linh,
– được ban cho khả năng phân biệt các linh, nhiều năm kinh nghiệm và được giáo dục khoa học tốt.– Nhưng cũng có những tín đồ không được đào tạo về khoa học nhưng vẫn có cảm nhận sâu sắc về các quá trình trong Kinh thánh và ngoài Kinh thánh.
Hiện tượng ân tứ giả mạo.
Tôi có rất nhiều tài liệu về chủ đề này đến nỗi không thể đưa hết vào một chương được. Tôi phải giới hạn mình vào một điểm duy nhất, đó là “sự ngã đổ về phía sau” trong cái gọi là phép báp têm bằng Đức Thánh Linh. Có một số nhà truyền giáo cực đoan khi đặt tay lên người khác, họ sẽ ngã về phía sau và mất ý thức trong vài giây. Một số người còn nói bằng tiếng lạ hoặc bằng những âm thanh khó hiểu khác.
Những Sự Kiện Giống Như Xuất Thần Trong Ngoại Giáo.
Trong những chuyến hành trình truyền giáo của mình, tôi đã có mối liên hệ thân thiện với Hội Truyền giáo Nội địa Trung Quốc. Đôi khi tôi nói chuyện với các nhà truyền giáo về cuộc khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn và cuộc thảm sát những cơ đốc nhân ở Trung Quốc năm 1900. Tôi được biết rằng những ứng cử viên trẻ cho lực lượng nổi dậy cách mạng này phải trải qua quá trình huấn luyện xuất thần trong quá trình đào tạo. Họ phải lặp lại một công thức ngắn hàng trăm lần mà không được ngắt quãng, tương tự như công án Tây Tạng hoặc các bài tập thiền siêu việt, cho đến khi các “vị thần” chiếm hữu họ, họ ngã ngửa xuống đất và nằm đó trong trạng thái xuất thần trong vài phút. Điều này nhằm mục đích cung cấp cho họ sự thúc đẩy về mặt tâm lý, sức mạnh tinh thần và thể chất để họ có thể chiến đấu. – Sự huấn luyện này dẫn đến việc bị ma quỷ xâm chiếm, sau đó ra lệnh tàn sát những cơ đốc nhân. Vì vậy, đó là một phép báp têm bằng thần linh. Trong cuốn sách “Cái chết của một vị đạo sư (Guru)”, cựu đạo sư Ấn Độ giáo Rabindranath R. Maharaj kể lại hành trình của mình từ Ấn Độ giáo đến Chúa Giê-xu. Ông viết trong đó: “Tôi mới mười ba tuổi và đã thực hiện nghi lễ Shakti Pat, nghi lễ nổi tiếng trong giới đạo sư, một dấu hiệu cho thấy sự chân thực trong tiếng gọi của tôi. Shakti là tên của Kali, người vợ giết chóc và uống máu của Shiva. Bà là nữ thần quyền lực. Tôi rất vui mừng khi được trở thành cầu nối truyền tải sức mạnh của họ.” Cuối sách có phần giải thích các thuật ngữ kỹ thuật. Có đoạn nói về thành ngữ Shakti Pat, hay chạm nhẹ: “Điều này có nghĩa là sự chạm của Guru, thường là tay phải, vào trán của người sùng bái, sẽ có tác dụng siêu nhiên. Shakti (một từ tiếng Phạn) theo nghĩa đen có nghĩa là sức mạnh, quyền lực. Bằng cách thực hiện Shakti Pat, vị đạo sư trở thành kênh dẫn truyền năng lượng nguyên thủy, năng lượng vũ trụ tạo nên nền tảng cho toàn bộ vũ trụ. Bà được hiện thân bởi Kali, vợ của Shiva. Hiệu ứng siêu nhiên của Shakti thông qua sự chạm vào của Guru có thể khiến người sùng bái ngã xuống đất, hoặc họ có thể cảm nhận được một luồng sáng rực rỡ và có được sự giác ngộ bên trong hoặc một số trải nghiệm huyền bí hay tâm linh khác.” – Những trải nghiệm với hiện tượng Shakti Pat cũng tương tự như những trải nghiệm “ngã về phía sau” của những người ân tứ giả. Ở đây chúng ta có một quá trình truyền thông và sự xâm nhập của các tôn giáo ngoại giáo phương Đông vào cơ đốc giáo.
V 32 Rabi Maharaj hiện là một nhà truyền giáo Phúc âm và sống tại Thụy Sĩ. Năm 1983, tôi gặp ông và chúng tôi có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm về phép báp têm bằng Đức Thánh Linh. Tôi hỏi Rabi, như bạn bè ông gọi, liệu ông có liên hệ Shakti Pat với quá trình “Bị giết trong Thánh Linh” (Slain in the Spirit) không. Ông trả lời câu hỏi này một cách khẳng định, nói rằng ông không bao giờ coi việc nghã người về phía sau là tác động của Chúa Thánh Linh.
V 33 năm trước, tôi đã kết bạn với một tù trưởng trẻ của bộ tộc Wongai ở Tây Úc. Ông ấy kể với tôi rằng bộ tộc của ông có sáu thầy lang có thể xuất thần bất cứ lúc nào và nói những ngôn ngữ không thể hiểu được và chuẩn bị các quyết định cho bộ tộc. Khi Tù trưởng Puwantjara trở thành một Cơ đốc nhân và lần đầu tiên nghe những người theo đạo Ngũ Tuần nói tiếng lạ, ông đã ngay lập tức so sánh điều đó với việc các thầy lang nói chuyện trong trạng thái xuất thần.
Trải Nghiệm Xuất Thần Xảy Ra Trong Suốt Quá Trình Ngoại Giáo. Có hàng trăm ví dụ trong sách của tôi. Trạng thái xuất thần có nghĩa là hoàn toàn thụ động, cho phép các thế lực đen tối tràn vào. Tuy nhiên, Kinh Thánh kêu gọi sự tỉnh táo (tự chủ) và cảnh giác hoàn toàn như là điều kiện tiên quyết để công việc thiêng liêng được thực hiện trong cuộc sống chúng ta.
Các Sự Kiện Giống Như Trạng Thái Xuất Thần Trong Cơ Đốc Giáo.
Tôi có nhiều ví dụ về chủ đề này hơn những gì có thể trình bày ở đây.
V 34 Vào năm 1970, tôi đã tham dự một buổi lễ chữa bệnh kéo dài bốn giờ với nhà thuyết giáo chữa bệnh Kathryn Kuhlman tại Pittsburgh (Hoa Kỳ). Tôi thấy khoảng 50-60 người ngã xuống. Tất cả bọn họ đều ngã về phía sau, và tôi không thấy bất kỳ dấu hiệu ăn năn nào ở bất kỳ ai. Kathryn Kuhlman muốn giải thích sự “ngã về phía sau” này với sự kiện trong Kinh thánh trên Núi Biến hình (Ma-thi-ơ 17). Nhưng ở đó có chép rằng: “Khi các môn đồ nghe tiếng đó, họ sợ hãi và ngã sấp mặt xuống đất.” Bất cứ ai được Thánh Linh của Chúa tác động đều sấp mặt xuống đất trong sự kính sợ và ăn năn.
V 35 Có một trải nghiệm rất bổ ích đối với tôi. Trong cuộc trò chuyện riêng với Kathryn Kuhlman ở Pittsburgh, bà ấy đột nhiên cầu nguyện cùng tôi. Bà ấy giơ hai tay lên cao hơn đầu tôi khoảng 15 cm. Tôi liền cầu nguyện trong lòng rằng: “Lạy Chúa Jesus, nếu người phụ nữ này nhận được sức mạnh từ Chúa, thì xin Chúa ban phước cho cô ấy và con. Nếu cô ấy không có được những món quà và sức mạnh từ Ngài, thì hãy bảo vệ con khỏi những điều đó. Con không muốn chịu ảnh hưởng lạ.” Trong khi Kathryn đang cầu nguyện, hai người giúp việc nhà thờ xếp hàng phía sau tôi để giữ tôi. Nhưng tôi không cảm thấy gì cả và đứng như một tảng đá, không hề mất đi ý thức. – Kể từ trải nghiệm đó, trong nhiều năm, tôi đã luôn chú ý lắng nghe để khám phá sự thật về những cuộc biểu dương chữa lành to lớn này. Nếu bạn muốn tìm hiểu chi tiết hơn , bạn có thể tìm hiểu thêm trong cuốn sách “Huyền bí ABC”. (Occult ABC)
V 36 Nhà truyền giáo Rabindranath Maharaj đã kể cho tôi nghe về một trải nghiệm của ông ở London. Tại thủ đô nước Anh, ông đã tham dự buổi nhóm của một người Mỹ có uy tín. Có khoảng 2000 người có mặt. Sau bài giảng, người Mỹ đã mời bất kỳ ai muốn nhận Chúa Thánh Linh hãy tiến lên phía trước. Khoảng 200 người đã tham gia, bao gồm cả Rabi, vì ông muốn điều tra quá trình này. Người ta đã cầu nguyện cho những vị khách này. Mọi người đều ngã về phía sau, chỉ có Rabi vẫn đứng vững. Ông ấy có cùng trải nghiệm như tôi đã có với K. Kuhlman ở Pittsburgh.
V 37 Một giáo sư thần học nghi ngờ về quá trình ngã về phía sau, đã đến thăm Kathryn Kuhlman ở Pittsburgh. Ông bày tỏ mối quan ngại của mình về quá trình “Bị giết trong Thánh Linh” này (Slain in the Spirit). Trong suốt cuộc trò chuyện này, giáo sư đang ở trong văn phòng của bà Kuhlman. Trước khi rời đi, ông ấy hỏi bà ấy: “Bà có thể cầu nguyện cùng tôi một lát được không?” Bà Kuhlman bước về phía giáo sư và đặt tay lên vai ông. Trước khi kịp cầu nguyện, vị giáo sư bắt đầu loạng choạng và ngã xuống đất.
V 38 Trong một buổi gặp gỡ chữa lành với Kathryn Kuhlman, có một người đàn ông muốn được chữa lành. Ông tiến lại gần bà. Ngay cả khi đã đi được một khoảng cách nhất định, ông vẫn bắt đầu loạng choạng, cho đến khi ngã ngửa hoàn toàn trước mặt Kathryn. Bà Kuhlman gọi quá trình này là “ở dưới quyền năng” | “bước vào vùng quyền năng “. “Vấn đề quyền năng” này đóng vai trò quan trọng đối với tất cả những người ủng hộ “ngã về phía sau”.
V39 Một người phụ nữ đến gặp mục sư Kenneth Hagins và muốn được chữa lành. Không có gì xảy ra sau lời cầu nguyện của người chữa bệnh. Sau đó Hagins nói với bà ấy, “Tôi có một vòng tròn sức mạnh xung quanh mình. Bà ở quá xa tôi. “Hãy đến gần hơn nữa!” Người phụ nữ bị bệnh tiến lại gần hơn, được nhận sự đặt tay, ngã ngửa ra sau và được chữa lành.
Vào mùa xuân năm 1974, có một đại hội được gọi là đại hội ân tứ tại Jerusalem với chủ đề “Chúa Thánh Linh”. Kathryn Kuhlman và Corrie ten Boom cũng tham gia. Nhiều tháng sau, tôi nhận được một lá thư từ Jerusalem từ một nữ thành viên của mục vụ truyền giáo Phần Lan.
V 40 Jerusalem, ngày 17.9.1974.
Kính gửi Tiến sĩ Koch, tôi viết thư cho ông vì tôi không biết ai khác có thể trả lời câu hỏi của tôi. Tôi đã đọc cuốn sách “Đức Chúa Trời có thể làm lại điều đó” của K. Kuhlman. Nó làm tôi ấn tượng. Khi K. Kuhlman đến Jerusalem vào năm 1974, tôi đã tham dự buổi nhóm chữa bệnh của bà với sự háo hức lớn lao. Lúc đầu tôi rất vui vì điều đó. Nhưng rồi sự nghi ngờ bắt đầu xuất hiện, và tôi bắt đầu hỏi: Làm sao bà ấy có thể biết từ xa rằng một người đã được chữa lành? Sức mạnh nào ẩn chứa đằng sau những sự chữa lành này? Tại sao mọi người lại ngã về phía sau, khi bà ấy cầu nguyện cho họ? Sau đó, tôi tham dự một buổi nhóm thứ hai và cầu nguyện suốt buổi nhóm. Đồng thời, tôi cũng cẩn thận quan sát các sự kiện. Sau buổi nhóm chữa bệnh, Kathryn rời khỏi bục và đi qua các hàng ghế. Đột nhiên tôi cảm thấy một áp lực bên trong và tôi sợ bà ấy có thể chạm vào tôi. Tôi nhắm mắt lại, giơ tay lên và cầu nguyện nhân danh Chúa Jesus rằng Chúa sẽ giúp tôi. Kathryn đi ngang qua nơi tôi đang đứng. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, bà ấy nắm chặt cánh tay phải của tôi. Không có gì xảy ra cả. Nhưng sau một lúc, tôi cảm thấy một sức mạnh như điện giật ở phía trên mình, và tôi cảm thấy như mình sắp chết. Cánh tay tôi bị tê liệt và tôi không thể hạ chúng xuống ngay được. Từ đó, tôi khó có thể tin rằng sức mạnh của bà ấy đến từ Chúa. Tuy nhiên, tôi đã đọc cuốn sách khác của bà Kuhlman, “Tôi tin vào phép lạ”. Với tôi thì có vẻ tốt. Tôi không hiểu tại sao tính cách của bà ấy lại mang lại ấn tượng khác so với trong sách. Tôi không thể đối mặt với những nghi ngờ của mình và chúng vẫn không ngừng làm tôi bối rối về mặt tâm linh. Nếu ông hiểu được điều này và có thể trả lời tôi, với mọi nỗ lực của ông, tôi sẽ vô cùng biết ơn
Thân ái…
Nhà truyền giáo người Phần Lan này không phải là người duy nhất có trải nghiệm này. Những người khác và tôi đã thấy sự khác biệt giữa sách và người đó. Tôi cũng thường được nghe nói rằng những người cầu nguyện liên tục sẽ trải nghiệm một bầu không khí không giống với Kinh thánh.
V 41 Tôi có một báo cáo dài về sự xuất hiện của Kathryn Kuhlman ở Vancouver và Seattle. Do không đủ chỗ nên chúng tôi chỉ có thể trình bày tóm tắt bằng một vài từ khóa. Người quan sát này đã viết: “Kathryn Kuhlman tự gọi mình là công cụ của Chúa. Trên thực tế, bà ấy là phương tiện truyền đạt của Chúa tể thế gian này. Một người không thể được tái sinh bởi Đức Thánh Linh, chỉ vì người khác chạm vào mặt người đó và nói vài lời. Tôi thú nhận mình có những ân tứ của Thánh linh, Ân tứ. Nhưng điều Kathryn Kuhlman thể hiện không phải là sự ban cho của Đức Thánh Linh từ Chúa, mà là của các thần cai trị trên không trung. Những linh này lợi dụng họ, tự lừa dối mình và lại lừa dối người khác. Bà ấy là phương tiện của Satan.”
V 42 Bức thư từ một giáo sư thần học nổi tiếng tại Đại học Tübingen cũng có nội dung tương tự. Một cơ đốc nhân, cũng là bạn thân của tôi, đã viết cho tôi: “Kathryn Kuhlman là một người theo thuyết thông linh.”
Chắc chắn là không ai trong chúng ta sẽ đưa ra những phán đoán khắc nghiệt như vậy mà không cân nhắc kỹ lưỡng. Chúng ta phải nghĩ và nói tốt về một người miễn là người đó không làm điều xấu. – Không thể không nhắc đến những kinh nghiệm sâu sắc về Chúa và Đức Thánh Linh có thể được ban cho những Cơ Đốc nhân khiêm nhường. Bản thân tôi cũng quen thuộc với những trải nghiệm tích cực, đầy cảm hứng từ thần linh như vậy và từ tiểu sử của nhiều người theo Chúa. Tôi vui vẻ nói đồng ý với điều đó, nhưng không đồng ý với hiện tượng song song về mặt tâm lý hoặc thậm chí là sự thay thế mang tính ma quỷ của kẻ thù không đội trời chung.
V43 Trong cuốn sách “Được ủy nhiệm để chữa lành”, Cha Mac Nutt thuộc dòng Đa Minh kể lại những trải nghiệm của mình với trạng thái xuất thần của vô thức. Khi Mac Nutt cầu nguyện với những người bệnh để được chữa lành bên trong và bên ngoài, họ sẽ ngã ngửa xuống đất. Một số người đã bất tỉnh, một số khác vẫn còn tỉnh táo nhưng bị tê liệt. Khi linh mục cầu nguyện với một người bệnh đang ngồi trên ghế, người được chữa lành sẽ bị liệt trên ghế và không thể đứng dậy. Trạng thái này, mà vị linh mục gọi là “an nghỉ trong Thánh Linh ”, kéo dài từ vài giây đến sáu giờ. Mac Nutt chỉ sở hữu khả năng khiến người khác “an nghỉ trong Linh” kể từ khi chính ông ngã ngửa xuống đất trong lúc diễn giả đang “cầu nguyện”.
Ở đây một lần nữa chúng ta lại có quá trình chuyển giao quyền lực trung gian (quyền lực thông linh, đồng bóng). Bất kỳ ai bị ảnh hưởng bởi sức mạnh truyền thông linh (đồng bóng) này đều có thể truyền nó cho người khác. Thông qua việc thực hành liên tục với năng lực ngoại cảm, các nhà ngoại cảm có thể phát triển khả năng truyền đạt thông điệp Cơ đốc giáo trong các buổi lễ nhà thờ, nhưng cũng có khả năng đưa những người tham gia khác vào trạng thái xuất thần.
Theo quan điểm của lịch sử tôn giáo, sự thoái hóa do phương tiện trung gian (đồng bóng, thông linh) gây ra chính là chủ nghĩa duy linh được gói gọn trong các thuật ngữ tôn giáo. Đó là sự tương ứng của ma quỷ đối với việc được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Những thế lực trung gian (đồng bóng) chính là bản sao ma quỷ copy những ân tứ thuộc linh của Chúa. Kết luận này là hợp lý vì các lực lượng trung gian có thể bị ngăn chặn và chế ngự thông qua cầu nguyện.
Trong một chuyến thuyết giảng ở Nam Phi, tôi đã nghe một anh em đồng đạo kể lại câu chuyện sau đây.
V44 Kenneth Hagins, người tự gọi mình là “nhà tiên tri”, đã phát biểu công khai tại một sự kiện ở Pretoria rằng linh hồn ông đã rời khỏi thể xác và được đưa đến ngai vàng của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Giêsu đứng dậy và nói với ông: “Ta sẽ lấy cục than từ bàn thờ và chạm vào tay ngươi. Điều này sẽ giúp ngươi chữa bệnh cho mọi người. Ngươi cũng có thể chuyển giao ân tứ chữa lành cho người khác. Hơn nữa, sau đó ngươi sẽ có thể phân phát những ân tứ thuộc linh bằng đôi tay này.”
Sau câu chuyện này, Hagins đã kêu gọi đám đông: “Ai muốn bàn tay chữa bệnh? Hãy liên lạc với chúng tôi!” Nhiều người đứng lên. Sau đó, ông giơ tay phải lên và vẫy nó trên không trung trước đám đông, tuyên bố: “Đây là món quà (ân tứ) dành cho các bạn.” Họ hầu hết đều ngã về phía sau, nhưng không phải tất cả. Những người ngã về phía sau cũng có thể khiến những người khác ngã và được chữa lành.
Những gì xảy ra ở Hagins không phải là sự kiện trong Kinh thánh. Hagins mô tả sự phấn khích của mình khi được lên bàn thờ Chúa. Điều này giống như chuyến du ngoạn trong linh của tâm hồn. Việc ban phát các món quà tâm linh được cho là thông qua bàn tay quyền năng của Hagin thực chất là các hoạt động trung gian (đồng bóng) và bắt chước của ma quỷ. Sứ đồ Phao-lô nói về các ân tứ thuộc linh trong 1 Cô-rinh-tô 12:11: “Mọi điều đó là công việc của đồng một Đức Thánh Linh mà thôi, theo ý Ngài muốn, phân phát sự ban cho riêng cho mỗi người” Thánh Linh của Chúa phân bổ, chứ không phải ý muốn và bàn tay của Hagins.
Tôi đã từng đề cập đến vấn đề ngoại cảm (trung gian, đồng bóng, mediale) và tâm linh trong những cuốn sách khác.
V 217 Tôi chỉ nhớ ở đây có một thầy bùa phép ở Schleswig-Holstein có đôi bàn tay nóng và có khả năng chữa bệnh. Ông là một trưởng lão trong một giáo đoàn Lutheran.
V 45 Tôi cũng nhớ vị Tù trưởng Datu ở Phi-líp-pin có thể nấu trứng bằng tay không. Khi trở thành người có đức tin, tay ông không còn nóng nữa. Ông đã nhận ra đó là một món quà của quỷ dữ.
Đây là ảo tưởng khủng khiếp của nhiều Cơ Đốc nhân khi cho rằng những biểu hiện quyền năng huyền bí, trung gian được coi là ân tứ của Chúa Thánh Linh. Kinh nghiệm cũng cho thấy khả năng ngoại cảm không phải lúc nào cũng biến mất cùng lúc với sự trở lại tin Chúa. Có nhiều Cơ Đốc nhân vô tình trở thành nhà ngoại cảm (trung gian, đồng bóng, mediale). Đôi khi họ có những thay đổi tâm linh kỳ lạ. Ngã về phía sau và ngất trí là một trong những dấu hiệu của hiện tượng trung gian (đồng bóng, mediale).
Những kinh nghiệm với Phong trào Ân tứ dạy chúng ta phải cầu xin nhiều hơn bao giờ hết ơn phân định các thần và để cho mình được hướng dẫn trong đức tin và sự vâng phục bởi Lời Chúa và Đức Thánh Linh vào mọi lẽ thật.
Chương về hiện tượng ân tứ giả không bao giờ có thể khép lại nếu chúng ta không tự đấm ngực và ăn năn. Thật đáng buồn, khi trong các nhà thờ và giáo đoàn Cơ đốc của chúng ta có quá ít sức mạnh tâm linh đích thực. Những phong trào cực đoan thường là kết quả của một căn bệnh thiếu hụt trong nhà thờ cơ đốc giáo. Sự bảo vệ hiệu quả nhất chống lại các phong trào cuồng tín sẽ là một phong trào ăn năn giữa những cơ đốc nhân và cùng nhau cầu xin Chúa ban cho chúng ta một phong trào phục hưng đích thực. Hội thánh của Chúa Jesus cũng phải mạnh mẽ hơn trước đây, về sự mong đợi Chúa sắp trở lại, Đấng một ngày nào đó sẽ chấm dứt sự chia rẽ và hỗn loạn khủng khiếp này trong hội thánh của Ngài.
Dấu hiệu và phép lạ của ma quỷ
Làn sóng các phong trào chữa lành kỳ lạ đang ngày càng lan rộng. Chúng ta đang sống trong một giai đoạn lịch sử nhân loại mà các quyền lực không thể kiểm soát và quyền lực ma quỷ ngày càng chiếm ưu thế, bất chấp sự phi thần thoại hóa. Hết sự giật gân này nối tiếp sự giật gân khác. Người ta kể rằng ở Syracuse có một bức tượng gỗ có thể khóc ra những giọt nước mắt có khả năng chữa bệnh.
V 46 Khi tôi ở Sicily, tôi đã nhìn thấy tượng Đức Mẹ khóc thương và chữa lành ở Syracuse. Cứ ba tháng, bức tượng gỗ lại chảy nước mắt. Vào những ngày này, mỗi ngày có khoảng 50 người được chữa khỏi bệnh. Hiện nay đã có hơn 600 người được chữa khỏi.
Ở Mỹ, có một câu chuyện về một giáo chủ, Cha Divine, tự nhận mình là Chúa và con trai của ông là Chúa Giê-xu. Cả hai người đàn ông này đều được cho là có khả năng chữa bệnh từ xa và giết người từ xa.
V 47 Một nhà truyền giáo nước ngoài là khách của tôi đã giải thích rằng mẹ ông đã bị giết bởi một người đứng đầu tà giáo chuyên sử dụng ma thuật đen.
Tin tức từ Cận Đông lan truyền rằng Hoàng tử Abdul, họ hàng của cựu vua Faruk, sẽ thực hiện những phép lạ to lớn. Ông sẽ cho lửa từ trời rơi xuống giống như Ê-li và bắt chước các phép lạ của Chúa Giê-su trong Tân Ước. Ông cũng có thể chữa lành người bệnh và khiến người chết sống lại như Chúa Giê-xu. Ở miền Nam nước Pháp, Georges de Montfavet cũng tự nhận mình là Chúa Giê-xu tái lâm. Người ta cho rằng có hàng trăm phép lạ được thực hiện bởi ông để chứng minh tính xác thực của tuyên bố này.
Những dấu hiệu kỳ lạ cũng xảy ra sau sự ra đi của nhà truyền giáo R. Paulaseer Lawrie. Ông đã thuyết giảng tại nhiều nhà thờ khác nhau ở Mỹ vào những năm 1950. Ông chữa lành người bệnh và người bị quỷ ám, và nhiều người đã cải đạo. Khi Lawrie tham dự một buổi nhóm của William Branham, Branham đã tiên tri về ông: “Hỡi con trai của ta, ta sai con đến như một người đàn ông phi thường. Nhiều người sẽ đến với Chúa Jesus qua ngươi! Hãy đến Ấn Độ! Những dấu hiệu và điều kỳ diệu lớn lao sẽ theo sau ngươi! Chúa phán như vậy!” Vào tháng 7 năm 1960, Lawrie đến Ấn Độ. Ông đã chữa khỏi bệnh phong, ung thư, bại liệt và đuổi quỷ khỏi hàng ngàn người bị quỷ ám. Hàng trăm ngàn người đã bị bắt giữ bởi “ngọn lửa hồi sinh”.
Năm 1969, khi Lawrie đang thuyết giảng tại nhà thờ Branham ở Tuscon, sấm sét bất ngờ nổi lên và một luồng sáng đánh xuống quảng trường nơi ông đang đứng. Từ đó trở đi, sấm sét luôn xuất hiện ở bất cứ nơi nào ông xuất hiện. Khi di chuyển, nó mang theo một lốc xoáy bụi cao 200 mét. Những đám mây đen luôn theo Lawrie khắp mọi nơi, và bất cứ nơi nào ông dừng lại, chúng đều đổ mưa cho đến khi ông tiếp tục đi. Đám mây này cũng bao phủ Lawrie ở Rome, Hy Lạp, Tel Aviv và Madras. Các hiện tượng tự nhiên vẫn tiếp diễn: một đám mây ở góc căn hộ của ông, có tia chớp nhưng không có sấm, có sấm nhưng không có mây, một quả cầu ánh sáng lớn phía trên đầu Lawrie trong một buổi nhóm. Năm 1971, ông thành lập một đạo tràng (ashram) và nó nhanh chóng được lấp đầy. Nhiều người không hề biết Lawrie; họ chỉ nhìn thấy hình ảnh của “Chúa Jesus” dưới hình dạng Lawrie. Sau đó, họ gọi ông là “Con của Ngài” và bản thân ông cũng được đặt biệt danh là “Muthu Krishna” (Thần Ngọc Trai). Ashram được gọi là “Jerusalem mới” và Thiên niên kỷ sẽ bắt đầu vào năm 1977. Khi không có lời tiên tri nào trở thành sự thật, tà giáo này đã tan rã.
Hàng trăm ngàn người đã bị các thế lực đen tối mê hoặc thông qua những tiên tri giả này, và dòng người lừa dối này vẫn tiếp tục không ngừng. Ngày nay, nhân loại đang chao đảo từ tin tức thú vị này đến tin tức thú vị khác. Một loạt những hàng người làm phép lạ, người chữa bệnh, người cứu rỗi và người giúp đỡ đầy màu sắc đang nhảy múa trước mắt chúng ta. Ai vẫn còn có thể nhìn rõ?
- Sự Phân Biệt Các Thần.
Chúng ta đã có chuyến tham quan ngắn qua nhiều phong trào chữa bệnh khác nhau hiện nay, bắt đầu bằng việc chữa bệnh thông qua ma thuật thuật đen và kết thúc bằng các phong trào chữa bệnh bên lề cơ đốc giáo. Lời Chúa nói gì về những phong trào này? Những phong trào chữa lành này là triệu chứng như trong Kinh thánh nói theo nhiều cách.
- a) Chúng ta đang sống trong thời đại mà sự huyền bí của sự vô luật pháp đang hoạt động (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:7 BD2020). Chúa Giê-su tiên đoán rằng sẽ có những Đấng Christ giả xuất hiện, thực hiện những dấu kỳ và phép lạ của ma quỷ (Mác 13:22) và do đó lừa dối nhiều người. Hậu quả của sự cám dỗ này rất đáng sợ vì nhiều người trong cộng đồng Cơ đốc giáo của chúng ta không nhận ra các phương pháp chữa bệnh huyền bí hay các tiên tri giả. Họ dễ bị lôi cuốn vào bất kỳ hoạt động nào được ngụy trang dưới dạng tôn giáo.
- b) Những phong trào chữa lành này cũng là dấu hiệu cho thấy cộng đồng Cơ đốc giáo đã thất bại ở một lĩnh vực nào đó. Điều đáng lo ngại của thế giới là sự chuyển hướng tập trung từ mục vụ chăm sóc linh hồn sang chăm sóc vật chất. Vấn đề của nhà thờ Cơ đốc là không dám thực tế và nghiêm túc với những lời hứa trong Kinh thánh. Mục vụ chăm sóc linh hồn đã trở nên thiếu lành mạnh và thiên vị một phía. Lời Chúa cung cấp sự giúp đỡ hiệu quả cho những ai dám đứng vững trong đức tin dựa trên những lời hứa.
c) Gia-cơ có tiếng nói quyết định trong việc giải quyết vấn đề chữa lành. Sự chữa lành nằm trong bối cảnh lành mạnh của việc xưng tội và tha thứ tội lỗi. Trong Tân Ước, sự chữa lành và sự tha thứ không thể tách rời. Hệ thống phân cấp này khiến cho sự tha thứ, sự chữa lành con người bên trong, được ưu tiên hơn sự chữa lành bên ngoài. Điều này được thể hiện rõ nhất qua câu chuyện về người bại liệt (Luca 5:20). Sự sai lệch xảy ra khi cả hai quá trình chữa bệnh bị tách biệt hoặc được chỉ định không chính xác. Phép thuật chữa bệnh chỉ là phương pháp chữa bệnh bên ngoài. Phương châm ở đây là: “Miễn là nó giúp ích, bất chấp thế nào!” Trong lĩnh vực Kinh thánh, mối quan tâm chính là sự chữa lành bên trong, có thể nhưng không nhất thiết phải theo sau sự chữa lành bên ngoài. Đôi khi Chúa cho phép môn đồ của Ngài trải nghiệm đau khổ như một trường học về đức tin, lòng kiên nhẫn và là quá trình trưởng thành cho cõi đời đời.
Để Làm Rõ Điều Này, Chúng Tôi Sẽ Báo Cáo Về Một Sự Chữa Lành Diễn Ra Theo Khuôn Khổ Của Trật Tự Kinh Thánh.
V48 Một phụ nữ trẻ bị đau họng kèm theo khối u to bằng quả trứng. Việc điều trị của bác sĩ đa khoa và bác sĩ thần kinh không mang lại kết quả chữa khỏi. Sau đó, bà đến để được tư vấn mục vụ và thú nhận những hành vi sai trái nghiêm trọng trong thời gian chồng bà vắng nhà. Nhờ đức tin, bà đã tin chắc vào sự tha thứ và tìm thấy sự bình an với Chúa. Sau một vài tuần, người đàn ông trở về sau thời gian bị giam cầm. Không cần ai yêu cầu, bà lại đến nói chuyện với chồng và tự mình lặp lại lời thú nhận. – Bà ấy chưa bao giờ nhận được lời khuyên như vậy. – Người đàn ông đã tha thứ cho bà. Sau ba ngày, cơn đau họng và tình trạng sưng tấy đã biến mất. Theo sau sự chữa lành bên là sự chữa lành bên ngoài.
Đối với Chúa Jesus và các tông đồ, quá trình chữa lành tự nhiên theo Kinh Thánh này là một trong những yếu tố cơ bản của Vương quốc Đức Chúa Trời bắt đầu từ Chúa Jesus. Vì vậy, tất cả những ai đã trải nghiệm sự phục sinh thuộc linh với Đấng Christ và đang ở trong mối tương giao với Ngài đều có thể hành động, theo lời của Gia-cơ. 5:14-16 “14 Trong anh em có ai đau ốm chăng? Hãy mời các trưởng lão Hội thánh đến, sau khi nhân danh Chúa xức dầu cho người bịnh đoạn, thì các trưởng lão hãy cầu nguyện cho người. 15 Sự cầu nguyện bởi đức tin sẽ cứu kẻ bịnh, Chúa sẽ đỡ kẻ ấy dậy; nếu kẻ bịnh có phạm tội, cũng sẽ được tha. 16 Vậy hãy xưng tội cùng nhau và cầu nguyện cho nhau, hầu cho anh em được lành bịnh: người công bình lấy lòng sốt sắng cầu nguyện, thật có linh nghiệm nhiều”. và Mc 16:17-18: “Vậy những kẻ tin sẽ được các dấu lạ nầy: Lấy danh ta mà trừ quỉ; dùng tiếng mới mà nói; bắt rắn trong tay; nếu uống giống chi độc, cũng chẳng hại gì; hễ đặt tay trên kẻ đau, thì kẻ đau sẽ lành”. Việc hàng ngàn lần bị lạm dụng bởi sự chữa lành huyền bí, không được làm lu mờ hoặc cướp mất trật tự chăm sóc mục vụ trong Tân Ước và nghi thức đặt tay trong đức tin theo Kinh Thánh. Khi tội lỗi của những quá trình huyền bí đen tối trở nên mạnh mẽ, ân điển qua Chúa Giê-xu thậm chí còn mạnh mẽ hơn.
Cuối cùng, hai hình thức chữa bệnh cơ bản sẽ được so sánh một lần nữa. Kinh Thánh biết rằng có sự giúp đỡ của ma quỷ. Hãy nghĩ đến các pháp sư Ai Cập, các nhà thuật sĩ người Canaan hoặc Simon (Công vụ các sứ đồ 8:9-25). Sự trợ giúp về mặt ma thuật hoặc tâm linh mang lại sự nhẹ nhõm trong thế giới vật lý. Tuy nhiên, ở đây có một sự bất cập: cơ thể được cho là cần được hỗ trợ, nhưng những kết nối tâm lý và những rối loạn phát sinh lại không được tính đến. Phương pháp này rõ ràng là đi chệch khỏi trật tự ban đầu của Kinh Thánh. Quan trọng hơn mọi mối quan hệ thể xác là mối quan hệ cá nhân của con người với Chúa. Trong phép thuật và thông linh (Magic and spiritualism), câu hỏi đặt ra là: Điều gì có ích? Trong Tân Ước, câu hỏi được đặt ra là AI GIÚP ĐỠ? Người thực hành phép thuật huyền bí nói: Nó có ích! Cơ đốc nhân thú nhận: Ngài giúp đỡ! Đằng sau “cái gì” và “nó” của thuyết huyền bí là bóng tối và sự u ám nhợt nhạt của những thế lực và quyền lực không thể kiểm soát. Có kẻ đang lẩn trốn ở đây! Đằng sau chữ “Ai” và “Ngài” của đức tin Cơ Đốc là Đức Chúa Trời hằng sống. “Chúa sẽ đỡ kẻ ấy dậy” (Gia-cơ 5:15) Gia-cơ làm chứng với lòng biết ơn và đức tin. Chúa làm việc hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Toàn bộ cuộc sống của chúng ta không phải nên thuộc về Đấng này, là Chúa Jesus Christ, vì lòng biết ơn sao?
Chương 6. BÁO CÁO VỀ NHỮNG SỰ CHỮA LÀNH VÀ GIẢI CỨU TRONG KINH THÁNH. (từ bản tiếng anh between Christ and Satan)
- Đấng Christ, Đấng Chiến Thắng Các Quyền Lực Bóng Tối
Vào năm 1935, khi tôi phục vụ trong một buổi truyền giáo ở M. (Haut Rhin – giáp ranh Pháp Đức). Sau buổi họp, một cặp vợ chồng và cậu con trai 15 tuổi đã giới thiệu bản thân. Họ kể cho tôi nghe câu chuyện sau: Trang trại của họ nằm trên dãy núi cao nguyên Vosges. Trong vài thập kỷ, những điều kỳ lạ đã xảy ra trong ngôi nhà của họ. Người chồng nói rằng đã nhìn thấy những bóng ma kỳ lạ trong nhà. Bản thân anh ta đã bị hành hạ rất nhiều từ khi còn nhỏ. Ngoài ra, anh ta còn có những triệu chứng kỳ lạ của bệnh bại liệt. Bác sĩ không thể giải thích căn bệnh này. Ngoài ra, đàn gia súc trong chuồng cũng gặp rắc rối. Những con bò sợ hãi và hành động điên cuồng. Khi kiểm tra chuồng, chúng đứng thành một nhóm, vãi mồ hôi. Chúng cũng cho thấy dấu hiệu của bệnh bại liệt. Bố mẹ của người đàn ông đã phải bán bảy con bò trong một năm. Vì chỉ còn lại một con bò, họ phải đối mặt với tình trạng phá sản. Sau đó, người nông dân già nghe nói về một người đàn ông có thể giúp đỡ trong những trường hợp như vậy. Người đàn ông này có tiếng là bậc thầy về ma thuật. Người nông dân đã mời người đàn ông đến và ông ta bắt đầu những nghi lễ kỳ lạ trong chuồng ngựa. Trong thời gian sau đó, hòa bình đã trở lại. Số lượng gia súc lại tăng lên.
Trong khi đó, Thế chiến thứ nhất đã bắt đầu. Người phù thủy phải ra trận. Bởi vì khu vực cụ thể này của dãy núi Vosges đã trở thành chiến trường nên những người nông dân buộc phải từ bỏ quê hương của mình. Họ sống như những người tị nạn trong bốn năm ở vùng sâu vùng xa của đất nước. Sau chiến tranh, con trai của người nông dân đã kết hôn. Mặc dù anh ta cảm thấy khá khỏe trong thời gian phục vụ, nhưng giờ đây các triệu chứng đáng lo ngại lại xuất hiện trở lại. Sau khi sinh đứa con đầu lòng, đứa trẻ sơ sinh bị những cơn đau lạ và không thể ngủ được. Một thầy phù thủy đã được gọi đến để giúp đứa trẻ sơ sinh. Một đứa trẻ thứ hai được sinh ra cũng bị bệnh. Ở sáu tuần tuổi, đứa trẻ sơ sinh này đã chết sau một cuộc đấu tranh sinh tử khủng khiếp kéo dài ba giờ.
Sau cái chết của đứa bé, người cha lại bị hành hạ và mắc phải những triệu chứng bất thường về thể chất. Sau thời gian điều trị y tế kéo dài và nhiều tuần theo dõi trong bệnh viện, ông phải trở về nhà mà không có chút tiến triển nào. Ông bị hành hạ cả ngày lẫn đêm ở đó đến nỗi gầy gò như một bộ xương. Mỗi lần cố gắng ngủ, ông lại giật mình vì những cú đánh khủng khiếp và đôi khi ông bị nhấc bổng lên như thể có bàn tay vô hình nào đó nhấc bổng lên rồi lại bị ném xuống. Ngôi nhà tràn ngập tiếng gõ cửa, cào cấu và xáo trộn. Thỉnh thoảng người ta nghe thấy tiếng cửa đóng sầm. Tệ hại hơn nữa là cả ngôi nhà tràn ngập mùi khó chịu buồn nôn.
Khi người đàn ông cố gắng ẩn náu trong lời cầu nguyện, anh ta đã bị một sức mạnh vô hình làm cho run rẩy khủng khiếp. Một lần, mặc dù anh ta cực kỳ yếu, anh ta đã tuyệt vọng đến mức phải rời khỏi giường. Anh ta cầm một cuốn sách cầu nguyện cũ và ngồi vào bàn để cầu nguyện và cầu xin Chúa trong cơn hoạn nạn của mình. Đột nhiên, anh ta cảm thấy một áp lực khủng khiếp xung quanh thắt lưng. Như thể bị những bàn tay mạnh mẽ tóm lấy, anh ta cảm thấy mình bị nhấc lên rồi bị ném xuống ghế với một lực mạnh đến nỗi anh ta nghĩ rằng mình sẽ nổ tung.
Cuối cùng, một người đàn ông khác được gọi đến để giúp đỡ, người này được cho là có thể làm được điều gì đó. Sau khi lời khuyên của ông được thực hiện, những hiện tượng này dần dần chấm dứt. Nhưng một thời gian sau, những điều kỳ lạ lại bắt đầu xảy ra trong chuồng ngựa. Đàn gia súc bị dịch bệnh, các cánh đồng và khu vườn không phát triển. Sau đó, người con trai cả cũng trở thành nạn nhân của những cuộc tấn công kỳ lạ này. Như đã đề cập trước đó, con trai ông đã từng được giải thoát khỏi những cuộc tấn công tương tự khi còn là một đứa trẻ sơ sinh bởi một người phù thủy. Bây giờ người đàn ông không còn tin tưởng những người phù thủy và những người hành nghề tại gia nữa. Ông đã tham khảo ý kiến của nhiều bác sĩ để điều trị cho con trai của ông, nhưng không thấy có sự cải thiện rõ ràng nào. Vào năm thứ mười lăm, cậu con trai đã trải qua những điều khủng khiếp. Cậu gần như bị hành hạ thập tử nhất sinh và nhìn thấy những hình thù quái dị đi lại quanh nhà. Một buổi sáng khi đang thức dậy, cậu bé bị những bàn tay mạnh mẽ túm lấy cánh tay, khiến cánh tay phải của cậu bé bị liệt hoàn toàn. Mặc dù đã điều trị và theo dõi trong bệnh viện trong thời gian dài nhưng không thấy có sự cải thiện nào.
Khi những người này đứng trước mặt tôi cùng với đứa con trai của họ sau buổi truyền giáo đó, Tôi thấy cánh tay phải của đứa con trai hoàn toàn khập khiễng và mềm nhũn ở bên cạnh. Tôi đã đặt một vài câu hỏi cho cha mẹ và nhận ra bối cảnh đằng sau tất cả những sự kiện bi thảm này qua lời khai của họ. Sau đó, tôi nói với mọi người về hậu quả khủng khiếp của tội lỗi ma thuật và thách thức họ ăn năn và quay về với Chúa bằng cả tấm lòng. Bằng cách sử dụng một số đoạn Kinh thánh, tôi đã làm rõ với họ rằng trong những trường hợp như vậy, các bác sĩ không thể giúp gì ngoài Chúa Jesus Christ, Đấng đã đến để hủy diệt công việc của Satan. Sau đó, cha mẹ đã thú nhận tội lỗi của mình và tuyên bố rằng họ muốn theo Chúa Jesus. Người con trai cũng sẵn lòng theo Chúa Jesus. Tôi đã cầu nguyện cho cậu ta nhân danh Chúa Jesus. Trong ân điển của Ngài, Chúa đã trả lời lời cầu nguyện và chữa lành cho chàng trai trẻ. Vài ngày sau, cậu đã giúp cha mình cắt cỏ. Từ giờ trở đi, sự bình an của Chúa ngự trên ngôi nhà. Phước lành của Chúa đã ở trên chuồng ngựa và cánh đồng.
Trong Thế chiến thứ hai, khi Strassbourg được di tản, tôi đã tìm thấy nơi trú ẩn cùng gia đình mình như những người tị nạn trong trang trại này ở dãy núi Vosges. Chúa Jesus Christ đã tôn vinh chính Ngài trong toàn thể gia đình này. Kể từ đó, gia đình, ngôi nhà và mái ấm tràn ngập tinh thần hòa bình.
Henri Waechter, Nhà truyền giáo ở Strassbourg.
- THÀNH TRÌ BÓNG TỐI
Vào năm 1938. Tôi đã tổ chức một buổi truyền giáo ở Hesse. Một buổi tư vấn đặc biệt sẽ mãi là kỷ niệm khó quên. Một thanh niên ngoài hai mươi tuổi xuất hiện và kể về những rắc rối của mình. Rối loạn cảm xúc của anh ta rất điển hình đến nỗi tôi đã nói với anh ta ngay rằng anh ta đã tham gia vào những điều huyền bí, hoặc những điều như vậy đã được thực hành trong gia đình anh ta. Anh ta thẳng thắn thừa nhận điều đó. Những gì anh ta nói với tôi lúc đó thật khủng khiếp, đến nỗi nó đã in sâu vào tâm trí tôi. Nếu tôi kể về điều đó ở đây, tôi không vi phạm ấn tín thú tội, bởi vì thanh niên đó đã yêu cầu tôi cảnh báo về lĩnh vực khủng khiếp này bất cứ nơi nào tôi có thể, dựa trên kinh nghiệm của anh ta. Trên thực tế, anh ta đã cho phép sử dụng tên và số phận của mình để răn đe. Nhưng điều đó không cần thiết.
Chúng ta hãy bắt đầu với chàng trai trẻ này. Từ nhỏ, anh đã bị trầm cảm, có ý định tự tử và rối loạn tâm thần. Vào ban đêm, anh thường giật mình vì những tiếng gõ cửa kỳ lạ từ một nguồn không thể giải thích được. Hoặc anh sẽ sợ hãi vì những tiếng rít và tiếng sột soạt do những hình ảnh kỳ lạ tạo ra. Bác sĩ tâm thần có thể chẩn đoán những biểu hiện bất thường này là bệnh thần kinh, mà không tìm ra nguyên nhân gây ra những rối loạn tâm thần này thông qua điều này. Câu chuyện về lịch sử gia đình đã làm sáng tỏ mọi mối liên hệ.
Bà cố của chàng trai trẻ là một người có phép thuật phù thủy. Bà chữa lành cho động vật và con người theo cách kỳ lạ của mình. Bên cạnh những phương pháp chữa bệnh ma quỷ này, bà cũng thuộc về một nhóm người theo thuyết duy linh thực hành giao hợp với các linh hồn âm phủ. Bi kịch khủng khiếp của gia đình này bắt đầu từ người phụ nữ này, người đã lún sâu vào những điều huyền bí.
Con trai và con gái của người phụ nữ này tiếp tục truyền thống của người mẹ. Cả hai đều làm phù phép trên người và động vật với sự giúp đỡ của Sách Moses ma thuật thứ 6 và thứ 7 và tiếp tục quan hệ với người chết. Họ cũng là những người thực hành con lắc với các sách bài hát và những chìa khóa và sắp xếp các lá bài cho mục đích bói toán. Cả hai đều có một kết cục khủng khiếp. Vào ban đêm, người phụ nữ nhìn thấy bóng ma trong phòng mình. Bà có cảm giác như thể những linh hồn ma quỷ đã bịt miệng và mũi mình lại. Điều này kéo dài trong nhiều năm cho đến khi người phụ nữ bị đưa vào trại tâm thần. Vì bà không bị bệnh tâm thần nên bà được thả ra sau nửa năm. Anh trai của người phụ nữ này đã chết trong đau đớn khủng khiếp. Trước khi chết, ông ta cầu xin người thân đốt hết sách ma thuật hoặc ném chúng ra khỏi nhà. Ông ta đã cầu xin Kinh thánh nhưng không còn hiểu được bất cứ điều gì nữa. Trong cơn đau khủng khiếp và bằng cách lan truyền một mùi hôi thối khó chịu, ông ta đã bước vào cõi vĩnh hằng.
Trong dòng dõi các cháu, tình hình cũng không khá hơn. Một đứa cháu gái thường lên cơn điên loạn đến mức đập vỡ đồ đạc của mình thành từng mảnh. Đôi khi, nó nằm xuống đường và hét lên với sức mạnh siêu phàm. Nó cứ tiếp tục như vậy cho đến khi bị đưa vào trại tâm thần. Một đứa cháu gái thứ hai vào ban đêm cũng nghe thấy tiếng gõ cửa như đã đề cập ở trên. Nó bị rối loạn cảm xúc đến nỗi một ngày nọ, nó đã tự tử cùng hai đứa con, một đứa năm tuổi và một đứa tám tuổi, bằng cách nhảy xuống từ một vách đá cao 37mét. Một đứa cháu trai được dùng làm phương tiện trung gian trong các buổi cầu hồn. Nó bị chứng cuồng loạn vì bị ngược đãi, và giống như những thành viên khác trong gia tộc, nó đã kết thúc cuộc đời mình trong một trại tâm thần.
Trong dòng dõi các cháu chắt có một cô gái tiếp tục truyền thống bói bài và bùa ngải. Cô ấy mất sớm. Anh chị em của cô ấy khẳng định rằng như một bóng ma, một linh không nơi an nghỉ, cô làm cho ngôi như bị ma ám. Anh trai của cô gái này là chàng trai trẻ đã kể lại lịch sử gia đình này. Anh ấy thú nhận với tôi rằng anh ấy đã phải chịu đựng quá nhiều đau khổ vì tất cả những điều này đến nỗi anh ấy cảnh báo mọi người không nên tham gia vào những điều huyền bí. Đối với tất cả những rối loạn tâm lý khủng khiếp này, anh ấy chỉ đổ lỗi cho ma thuật, trong đó tất cả các thành viên gia đình này đã tham gia qua nhiều thế hệ. Ở đây, một lần nữa sự phán xét của điều răn thứ nhất trở nên rõ ràng: “…vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét Ta, Ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời” (Xuất Ê-díp-tô ký 20:5) – Đây không chỉ là một trường hợp cá biệt mà tôi báo cáo ở đây. Trong chức vụ của mình tại các Mục vụ Truyền giáo trong nước, tôi đã nghe nhiều lịch sử gia đình như vậy trong các buổi tư vấn. Thật đau lòng khi trong ngành tâm thần học và tư vấn Cơ đốc giáo, quyền lực ma quỷ của ma thuật lại quá ít được biết đến và đánh giá thấp. Đó là kết quả của chủ nghĩa duy lý (rationalism) khi những điều như vậy bị coi nhẹ hoặc được coi là trò bịp bợm. Nếu chúng ta muốn giúp đỡ những người bị ràng buộc như vậy trong việc tư vấn thì chúng ta phải coi trọng những ảnh hưởng của quỷ dữ trong cuộc sống của mọi người. Con người đang ở trong cuộc chiến giữa Đấng Christ và Satan. Khi Satan chỉ được coi là bù nhìn hoặc trò cười cho trò hề và trò ngụy trang, thì một thực tế vô cùng liên quan đã bị bỏ qua, và Satan có thể bẫy và hạ bệ nạn nhân của mình mà không bị cản trở. Khu vực nguy hiểm nhất của sự cám dỗ của quỷ dữ là ma thuật; vì sự giúp đỡ của quỷ dữ đang được áp dụng một cách có ý thức ngay cả khi sự giúp đỡ này được ngụy trang bằng các nghi lễ ngoan đạo.
Cảm tạ Chúa vì quyền lực ma quỷ trên trái đất này không phải là điều cuối cùng có thể nói với mọi người. Chúa Jesus Christ đã đến để hủy diệt công việc của ma quỷ (1 John 3, 8). Chúng ta tuy có một kẻ thù hùng mạnh nhưng cũng có một người bạn toàn năng, như nhà truyền giáo người Đức quá cố, Ernst Modernsohn, thường nói. Bàn tay phải của Chúa làm việc dũng mãnh, ngay cả với những người đã bị đẩy vào sự phụ thuộc trực tiếp vào ma quỷ thông qua việc chiếm hữu những thứ huyền bí. Điều này cũng được thể hiện trong cuộc đời của chàng trai trẻ mà tôi đã tường thuật ở đây. Chúa Giê-xu Christ đã ban cho anh niềm vui và sự tự do. Xiềng xích và dây trói đã bị phá vỡ dưới bàn tay toàn năng của Đấng chiến thắng vĩ đại trên đồi Golgotha. Chúa Jesus Christ là và vẫn là Đấng chiến thắng cho đến muôn đời.
- Công Việc Của Ma Quỷ
Một người phụ nữ khỏe mạnh về thể chất và tinh thần ngày càng có những trải nghiệm kỳ lạ vào ban đêm. Cô có cảm giác như thể mình đang bị đánh mặc dù cô không nhìn thấy ai trong phòng. Vào buổi sáng, cô có những vết bầm tím đen trên cơ thể. Điều này lặp lại một hoặc hai lần một tuần. Cô không biết làm thế nào để giải thích những sự kiện khó hiểu này. Lúc đầu, cô xấu hổ khi nói về điều đó vì cô không muốn trở thành chủ đề bàn tán của mọi người. Cuối cùng, trong cơn đau khổ, cô tìm kiếm sự giúp đỡ tư vấn. Cô đã nhờ một mục sư địa phương tư vấn. Ông không biết phải làm gì với những sự việc này. Người phụ nữ này hoàn toàn không có dấu hiệu là người bị loạn thần kinh hoặc rối loạn tâm thần. Cô hoàn toàn bình thường trong các lĩnh vực khác của cuộc sống. Một mục sư khác được tham khảo ý kiến cũng không biết gì về lĩnh vực kỳ lạ này và không thể giúp người phụ nữ này.
Một ngày nọ, một người bạn của tôi biết về lĩnh vực huyền bí thông qua công việc của mình, đã đến thăm người phụ nữ. Vì đây không phải là trường hợp rối loạn cảm xúc hoặc tinh thần, anh ấy đã hỏi về lĩnh vực ma thuật.
Sau khi nói hết mọi chuyện, câu chuyện sau đây được sáng tỏ. Khi còn trẻ, người phụ nữ này đã được một chàng trai trẻ theo đuổi, người này muốn cưới cô với bất kỳ điều kiện nào. Vì người cầu hôn nồng nhiệt này khiến cô gái ấn tượng là một người theo chủ nghĩa mù quáng (obscurantism), nên cô gái đã từ chối anh ta. Sau đó, người đàn ông đe dọa cô: “Tôi sẽ hành hạ cô”. Lúc đầu, cô gái không nghĩ đến lời đe dọa này. Cô không sợ và không để ý đến cuộc nói chuyện. Chỉ sau khi cô trải qua những cơn quấy nhiễu ban đêm và những vết thâm tím hiện rõ trước mắt mọi người, cô mới nhớ ra điều này. Nhưng cô vẫn không thể tin rằng một điều như vậy lại có thể xảy ra.
Trước khi tiếp tục câu chuyện này, tôi xin nêu vắn tắt cách tôi xử lý những trường hợp như vậy. Nếu những người như vậy đến gặp tôi, trước tiên tôi sẽ xem xét xem có bất kỳ nguyên nhân y khoa, tâm thần nào đằng sau những trải nghiệm này không. Nếu có thể tìm ra nguyên nhân, tôi sẽ gửi bệnh nhân đến bác sĩ tâm thần Cơ đốc tin kính. Những sự việc thường khó hiểu cũng có thể được hiểu thông qua những phát hiện gần đây của tâm lý học chiều sâu. Khi đánh giá những trường hợp này, cần hết sức thận trọng và kiềm chế. Một chẩn đoán sai có thể gây ra hậu quả thảm khốc. Nếu tất cả các lĩnh vực khoa học đã được tham khảo tận ngọn nghành thì có thể áp dụng các phát hiện của khoa học cận tâm lý học hoặc huyền bí học, nếu có thể chỉ ra những mối liên hệ như vậy. Và còn nhiều điều hơn thế nữa ở đây mà các bác sĩ, nhà tâm lý học và nhà thần học của chúng ta biết thông qua giáo dục đại học. Các hoạt động huyền bí được tìm thấy trong số những người dân với số lượng rất lớn. –
Chúng ta hãy quay lại trường hợp của chúng ta. Bạn tôi đã cầu thay tha thiết cho người phụ nữ gặp rắc rối. Anh ấy chỉ ra với bà rằng bà phải hoàn toàn phó thác cho Chúa Giê-xu Christ nếu bà muốn được giải thoát. Chỉ trong Chúa Giê-xu Christ mới có sự giải thoát hoàn toàn trong lĩnh vực này. Sau lời khuyên này và cuộc chiến tư vấn tiếp theo, một điều kỳ lạ đã xảy ra. Người đàn ông đã đe dọa sẽ hành hạ bà đã treo cổ tự tử. Từ ngày đó, người phụ nữ đã được tự do. Những trải nghiệm đó không bao giờ tái diễn.
Trường hợp này thuộc về lĩnh vực gây tranh cãi về ám thị tinh thần từ xa. Ngay cả khi những người theo chủ nghĩa duy lý hiện đại của chúng ta tuyên bố những điều này là trò bịp bợm và lừa dối, lĩnh vực này không được hiểu theo thực tế khủng khiếp của nó bằng cách giải thích này. Schopenhauer đã nói: “Cũng có sự hoài nghi về sự thiếu hiểu biết.” Ở đây cũng áp dụng lời của Shakespeare rằng vẫn còn những thứ giữa trời và đất mà thế giới này chưa bao giờ mơ tới. Lĩnh vực ám thị tinh thần đã được khá nhiều bác sĩ nghiên cứu. Tôi chỉ đề cập đến Tiến sĩ Dusart, Janet và Gibert, những người có thể tác động đến đối tượng của họ ở khoảng cách 10 km. Trong tư vấn cơ đốc giáo, những hiện tượng này đặc biệt được tìm thấy liên quan đến cuốn sách ma thuật nguy hiểm, Sách ma thuật Moses thứ 6 và thứ 7. Tôi biết đủ các trường hợp ám thị tinh thần là bằng chứng mạnh mẽ cho thấy chúng không thể chỉ đơn giản bị loại bỏ chỉ vì là một mê tín phổ biến.
Ngay cả trong trường hợp của chúng ta, những rối loạn về đêm này là triệu chứng của chứng cuồng loạn hoặc bệnh lý tuyến ức khác thì việc chữa lành đột ngột và lâu dài vẫn là điều phi thường. Mọi bác sĩ đều biết việc chữa lành những căn bệnh như vậy khó khăn như thế nào. Nhưng trong tình huống này, đó không phải là một căn bệnh như vậy mà là ảnh hưởng của ma thuật. Đối với cơ đốc nhân, đó là một bí mật công khai rằng con người bị bao quanh và bị bao vây bởi các thế lực ma quỷ và satan. Đấng Christ không cần phải đến nếu ý tưởng về ma quỷ chỉ là ảo tưởng của một thời đại chưa được khai sáng. Không, quyền lực của bóng tối là một thực tế nhưng là một thực tế đã bị Đấng Christ chế ngự. Do đó, Con của Đức Chúa Trời đã đến để phá hủy các công trình của ma quỷ. Ngài là Đấng đã chiến thắng mọi thế lực đen tối.
- Bệnh Điên Không Thể Chữa Khỏi
Một cơ đốc nhân đã kể cho tôi nghe câu chuyện về tổ tiên và gia đình của ông. Ông bà cố đã thực hành phép thuật. Kết quả của những hoạt động huyền bí này là có những khả năng ngoại cảm trong dòng tộc ông bà. Bà ngoại bị rối loạn tâm lý. Bà bị trầm cảm và có tính khí nóng nảy, ích kỷ. Rối loạn tâm lý ngày càng trầm trọng hơn cho đến khi dẫn đến những cơn điên loạn. Bà phải bị trói và trong tình trạng này đã được đưa vào bệnh viện tâm thần. Ở thế hệ thứ ba là cha mẹ của người kể lại câu chuyện, một lần nữa bị những rối loạn tâm lý như trầm cảm, ảo giác và các rối loạn chức năng hữu cơ do thần kinh gây ra đã được quan sát thấy. Khi người cha chấp nhận Đấng Christ, ông đã được giải thoát khỏi mọi triệu chứng cưỡng bức và biến chứng tâm lý. Người thuật lại câu chuyện hiện đang ở thế hệ thứ tư của gia đình này. Khi còn trẻ, ông đã phải đấu tranh nhiều với chứng trầm cảm nhưng Đấng Christ đã giải thoát ông hoàn toàn. Ở thế hệ thứ năm, con trai của người đàn ông này là người mà chúng tôi sẽ kể chi tiết.
Theo lời cha mình, chàng trai trẻ này là một đứa trẻ thân thiện và tốt bụng. Khi anh 18 tuổi, giống như dòng tộc của mình, anh đã mắc một căn bệnh về cảm xúc và sau đó là bệnh tâm thần. Lúc đầu, anh bị trầm cảm, đi kèm với nỗi sợ hãi cuộc sống mãnh liệt. Sau đó, giai đoạn trầm cảm được thay thế bằng nhiều nỗi ám ảnh khác nhau. Anh sẽ quỳ gối và cầu nguyện hàng giờ. Sau đó, anh lại lên cơn điên loạn và đánh cha mẹ mình. Sau những cơn đau này, anh chạy vào rừng và lang thang trong nhiều ngày cho đến khi kiệt sức. Những người làm nghề lâm nghiệp thường đưa người đàn ông bất hạnh này về nhà. Anh đã bị đuổi việc vì tình trạng này. Khi bước tiếp theo, các triệu chứng tâm thần phân liệt xuất hiện. Anh nghe thấy tiếng gõ cửa trong nhà, nhìn thấy ánh sáng và nghe thấy tiếng nói, thách thức anh không được vâng lời cha mẹ nữa mà chỉ nghe theo tiếng nói bên trong mình. Trong hoàn cảnh này, cha mẹ anh cảm thấy buộc phải đưa con trai mình đi khám bác sĩ tâm thần. Bác sĩ tâm thần này đã đưa ra chẩn đoán sau: Bệnh tâm thần phân liệt cấp độ cao không thể chữa khỏi, phải đưa vào trại tâm thần.
Người cha từ chối cho con trai nhập viện. Ông bắt đầu một vòng tròn cầu nguyện nhỏ với những người tin Chúa và cùng nhau họ cầu thay cho chàng trai trẻ bị bệnh nặng. Sau đó, ông đưa con trai đến một viện an dưỡng Cơ đốc do một người đàn ông nổi tiếng của Chúa điều hành. Người đàn ông bị bệnh tâm thần tiếp tục những cơn u mê trong viện an dưỡng này. Mỗi ngày, giám đốc viện an dưỡng ngồi cùng với chàng trai trẻ, đọc một vài câu Kinh thánh khích lệ cho anh ta và cầu nguyện cùng anh ta. Lúc đầu, phương pháp điều trị tư vấn này có tác dụng tiêu cực. Bệnh nhân bị ám ảnh bởi những ảo tưởng tôn giáo. Trước công chúng, anh ta quỳ bên một chiếc ghế dài và cầu nguyện hàng giờ. Cảnh tượng này thường lặp lại. Sau đó, giám đốc viện an dưỡng bắt đầu một vòng tròn cầu nguyện cũng cầu thay cho người đàn ông bị bệnh. Sau một vài tuần, tình trạng của anh ta đã được cải thiện rõ rệt. Vào cuối tuần thứ sáu, trong một buổi tư vấn, tâm trí của chàng trai trẻ đột nhiên trở nên hoàn toàn minh mẫn. Những thôi thúc và hành vi cưỡng chế của anh ta đã dừng lại hoàn toàn. Sau hai tuần theo dõi, giám đốc viện an dưỡng có thể cho bệnh nhân về nhà vì đã khỏi bệnh. Chàng trai trẻ có thể một lần nữa quay lại với nghề của mình. Ngày nay, anh là kỹ sư xây dựng trưởng của một công ty lớn và anh đã chứng minh mình là một Cơ đốc nhân sống động. Trong mười tám năm, không có dấu hiệu nào của căn bệnh tâm thần trước đây. Bệnh tâm thần phân liệt cấp độ cao không thể chữa khỏi như bác sĩ tâm thần chẩn đoán đã được Đấng Christ chữa lành.
Có thể thấy hai dòng chảy xuyên suốt toàn bộ lịch sử gia đình này. Tổ tiên tham gia vào các hoạt động ma thuật và huyền bí. Các bệnh về cảm xúc và tinh thần xuất hiện ở con cháu qua bốn thế hệ. Trong ba thế hệ, ông nội, cha và con trai, những rối loạn tâm lý này đã biến mất khi họ hướng về Đấng Christ. Báo cáo này cho thấy quyền năng của Chúa Jesus Christ vẫn có thể thực hiện phép lạ, nơi công nghệ y khoa đã bó tay. Với Chúa không có trường hợp nào là vô vọng. Thông qua đức tin, các quyền năng sáng tạo và đổi mới đang diễn ra trong cuộc sống của người theo Chúa Jesus. Một bác sĩ đã từng làm việc nhiều với những cơ đốc nhân đã tuyên bố: “Với những cơ đốc nhân, người ta phải rất cẩn thận về chẩn đoán. Nếu hôm nay họ nằm trên giường bệnh, họ có thể gặp bạn ở cửa vào ngày mai, hạnh phúc và khỏe mạnh.
Đức tin của họ rất khó đoán, đến nỗi họ thường phủ nhận toàn bộ khái niệm y khoa. Bạn không bao giờ biết mình đang ở đâu với những người như vậy.”
- Đừng Nhớ Lại Tội Lỗi Thời Trẻ Của Tôi
Một thanh niên Thụy Sĩ đã là tín đồ trung thành của Chúa Jesus trong nhiều năm, đã kể cho tôi nghe câu chuyện về cách anh ấy tìm thấy Chúa Jesus. Anh ấy viết:
Khi tôi mười lăm tuổi, tôi đã bị phù phép vì tôi có một số mụn cóc trên bàn tay phải. Ở địa phương của chúng tôi, theo phong tục, khi bệnh tật xuất hiện, họ không tìm đến bác sĩ mà tìm đến thầy phù thủy. Vị phù thủy đã thành công ngay lập tức. Tôi đã được giải thoát khỏi những điều xấu xí nhưng khi làm như vậy, tôi đã chịu ảnh hưởng của ma quỷ, dưới gọng kìm của phép thuật. Trong nhiều năm, tôi đã đấu tranh chống lại những hậu quả sau đó. Tôi bắt đầu đọc sách báo rẻ tiền. Sách hay thì quá nhàm chán đối với tôi. Phim dở, với bầu không khí gợi cảm, khiêu dâm của chúng làm tôi mê mẩn. Mọi lời cảnh báo đều vô ích. Tôi đã trở thành một kẻ nghiện thực sự trong lĩnh vực này. Tôi liên tục sống trong bầu không khí rối loạn tình dục. Tôi nổi loạn chống lại mọi thứ thiêng liêng. Tâm trí tôi bị đầu độc bởi tất cả những điều xấu xa. Tính dục đã được đánh thức và gây ra cho tôi nhiều rắc rối. Sự cưỡng bức quá lớn đến nỗi tôi không thể thoát khỏi một số thứ. Tôi đã nhiều lần sa ngã. Vì những thất bại thường xuyên, tôi cảm thấy ghê tởm, bực bội và nản lòng. Với tâm trạng tuyệt vọng này và sự bất tuân của mình, tôi đã gây ra nhiều rắc rối cho cha mẹ và cấp trên. Vì tình trạng giằng xé nội tâm này, tôi không thể tập trung vào công việc và công việc của tôi rất không đạt yêu cầu. Do đó, tôi đã thất bại nhiều lần.
Trong nhiều năm, tôi là nạn nhân của những đam mê của mình và phải chịu đựng sự khuất phục này. Sau đó, khao khát một cuộc sống trong sạch thức tỉnh trong tôi. Một ngày nọ, tôi được mời đến một buổi nhóm của những người đàn ông. Một mục sư đã nói về những điều đã gây ra cho tôi rất nhiều rắc rối. Ông chỉ ra con đường giải thoát và thách thức những người đàn ông đưa ra quyết định cho Đấng Christ. Tối hôm đó, tôi đã bị đánh vào tận sâu thẳm trái tim mình nhưng tôi không dám nói chuyện với mục sư. Một cảm giác xấu hổ sai lầm đã ngăn cản tôi tìm kiếm lời khuyên. Tôi tìm kiếm những cách khác. Cuối cùng, tôi nghĩ rằng mình có thể thoát khỏi tất cả những điều ràng buộc tôi trong hôn nhân. Tôi kết hôn với một người phụ nữ có ba đứa con. Thay vì giải pháp thì lại có những vướng mắc mới. Tôi ngày càng trở nên khốn khổ. Mọi thứ đều khó chịu và ghê tởm đối với tôi. Tất cả những điều này nên kết thúc ở đâu? Chúa biết một con đường.
Vợ tôi bị bệnh. Rồi tôi cũng phải nằm liệt giường. Một chứng loạn thần kinh kỳ lạ mà các bác sĩ không thể chẩn đoán chính xác, gần như khiến tôi tuyệt vọng. Một nỗi sợ hãi khủng khiếp rằng tôi có thể không bao giờ khỏe lại, đã chiếm lấy tôi. Đây là lúc tôi bắt đầu cầu nguyện sốt sắng. Tôi liên tục kêu cầu Chúa tha thứ và giải cứu. Cuối cùng, tôi hoàn toàn hiểu rõ rằng tôi không bao giờ có thể tự mình giải quyết những rắc rối này. Toàn bộ điểm yếu của tôi đã được bộc lộ cho tôi. Vào thời điểm đó, tôi nhận được một tờ rơi từ một người bạn chỉ cho tôi cách quay trở lại. Đúng vào thời điểm thích hợp trong cuộc đời, khi tôi đã đến điểm thấp nhất của nhu cầu bên trong, sự hướng dẫn này đã được ban cho tôi. Tôi cảm thấy rằng Chúa là một nhà tâm lý học giỏi hơn các bác sĩ và mục sư của chúng tôi. Ngài biết thời điểm, loại trợ giúp nào và Ngài có thể gửi đúng người đến. Tôi đã mở lòng mình với người bạn này và thú nhận tất cả những điều đen tối trong cuộc sống của mình. Đây là bước ngoặt của cuộc đời tôi.
Một niềm vui lớn đã đến trong cuộc sống của tôi, niềm vui về sự tha thứ mọi tội lỗi, niềm vui về món quà cứu chuộc. Nhờ ân điển của Chúa, tôi cũng đã trải nghiệm được điều này: “Vậy nếu Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do” (Giăng 8:36). Lời cầu nguyện của Thi sĩ (Thi thiên 25:7): “Đừng nhớ đến tội lỗi thời thanh xuân của tôi” đã được đáp lại trong cuộc sống của tôi. Sự tha thứ và cứu chuộc đã trở thành của tôi. Trong thời thơ ấu, tôi đã từng học câu Kinh thánh trong Ê-phê-sô 1, 7: “Trong Ngài, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội, theo sự giàu có của ân điển Ngài“. Tôi đã nghĩ đến câu Kinh thánh này nhưng tôi chưa từng trải nghiệm. Nhưng giờ đây, sự đảm bảo này đã được ban cho tôi qua Đức Thánh Linh và cả thế gian có thể phản đối nhưng vẫn không thể lấy mất nó khỏi tôi. Sau ngần ấy năm đau khổ khủng khiếp bên trong, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể trở thành một người vui vẻ. Nhờ lòng thương xót của Chúa, giờ đây tôi biết đôi điều về lời hứa của Ngài: ” còn ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư dật”. (Giăng 10:10)
- Chúa Giê-xu Cứu Chuộc
Nhiều năm trước, tôi thuộc loại người, đối với mọi trường hợp bệnh tật trong gia đình, đều tìm đến sự giúp đỡ của các bác sĩ không chuyên, nhà thôi miên, người chữa bệnh bằng phương pháp tự nhiên, v.v. Tất cả những người đàn ông này đều được cho là bậc thầy về vật lý trị liệu và thực hành nghệ thuật chữa bệnh mà họ không thể kiểm soát với các công thức đã được chứng minh, thảo dược và thuốc mỡ cũ. Những người hành nghề y như vậy cũng được cho là phát triển các phương pháp điều trị siêu hình, sinh học hoặc gợi ý (ngoại cảm). Tên của họ càng cao siêu, họ càng có thể chuyển đổi nghệ thuật đen tối của mình thành tiền mặt; vì tất cả họ đều trở nên thịnh vượng. Trên thực tế, hầu hết tất cả họ đều thực hành các nghệ thuật ma thuật theo nhiều biến thể. Chủ yếu là sử dụng bùa ngải ma thuật. Điểm chung của tất cả bọn họ và vẫn còn cho đến ngày nay là họ che giấu những phương pháp nguy hiểm của mình dưới vỏ bọc cơ đốc nhân. Họ đóng vai trò là người đàn ông danh dự và cũng muốn xuất hiện như những cơ đốc nhân. Đôi khi họ có danh tiếng này. Nhưng một người đã được đào tạo về nghề này, như trường hợp của tôi, biết rằng hầu hết tất cả chúng đều có nguồn cắm từ bên dưới. Họ không lấy quyền năng và ân tứ của mình từ Chúa, cũng không phải từ một phạm vi trung lập của tự nhiên, như họ cố gắng khiến những người ngờ nghệc và ngây thơ tin tưởng, mà từ phạm vi quyền lực của ma quỷ. Tôi đã có đủ thời gian để điều tra
và biết về những sự thật này.
Trong ba mươi năm, cha tôi đã thực hành nghệ thuật chữa bệnh phép thuật này. Ông đã sử dụng sức mạnh ma thuật của mình lên con người và động vật và đạt được kết quả tuyệt vời. Mọi người từ khắp nơi đến tìm kiếm sự giúp đỡ và ông đã chữa trị cho họ. Thường thì chỉ cần một lá thư hoặc cuộc trò chuyện qua điện thoại của bệnh nhân với cha tôi là đủ. Thông qua sự ám thị (gợi ý ngoại cảm), bệnh nhân được chữa lành. Ngay cả ngày nay, hình thức chữa bệnh qua điện thoại này vẫn được thực hiện bởi hàng trăm và hàng nghìn người. Không chỉ có những hiệu ứng ám thị hoặc thôi miên đơn giản được truyền từ xa mà còn có cả ma thuật và quyền lực ma quỷ. Những Hậu quả khủng khiếp từ việc thực hành ma thuật của cha tôi đã được thấy rõ ràng trong toàn bộ gia đình và con cháu. Tuy nhiên, sau khi ông mất, tôi vẫn không để mình nản lòng trong việc học nghệ thuật chữa bệnh ma thuật này. Sự hấp dẫn của điều chưa biết và viễn cảnh về những tác động của các thế lực mà không phải ai cũng có thể tiếp cận đã lôi cuốn tôi. Tôi cũng muốn thành thạo nghề ma thuật này để có thể kiểm soát con người và động vật. Thông thường, không dễ để học nghệ thuật này như một nghề nghiệp nhưng vì tôi đã có khuynh hướng tâm linh và chịu sự chi phối theo hướng này thông qua cha mình, nên tôi đã thành công trong việc theo đuổi nghệ thuật có hại này. Những thí nghiệm chữa bệnh đầu tiên của tôi với các thành viên trong gia đình đã thành công. Được khích lệ bởi điều này, tôi tiếp tục phương pháp chữa bệnh này trong vòng họ hàng và người quen của mình. Tôi tràn ngập niềm tự hào rằng bùa chú thực sự có tác dụng.
Giống như cha tôi và những người thân của tôi, tôi đã không thoát khỏi những hậu quả khủng khiếp. Tôi đã bị suy nhược thần kinh một cách khá bất ngờ. Tôi quá yếu và kiệt sức đến nỗi tôi phải từ bỏ công việc của mình. Trong nhiều tuần, tôi ngồi nhà không làm gì cả và sau đó là ở bệnh viện. Đây là lúc Chúa nói chuyện với tôi. Trong sự tĩnh lặng, tôi suy nghĩ về cuộc đời mình. Một sự giúp đỡ lớn nữa là một bệnh nhân tại một khu nghỉ dưỡng sức khỏe trong khu vực của chúng tôi đã dành kỳ nghỉ của mình ở đó và bắt đầu nói chuyện với tôi. Tôi phát hiện ra rằng người lạ đó biết nhiều về phương pháp bùa ngải ma thuật. Vì vậy, chúng tôi đã có đủ tài liệu để trò chuyện. Người đàn ông này đã cảnh báo tôi về phương pháp chữa bệnh bằng phép thuật của tôi và những tác dụng của nó. Ông ấy đã hỏi một vài câu hỏi về hoàn cảnh của tôi. Tôi phải thú nhận rằng những tác dụng điển hình của bùa ngải đã được nhìn thấy trong gia đình chúng tôi. Cả trong gia đình cha mẹ tôi và trong chính ngôi nhà của tôi đều không có sự bình yên. Một tính khí buồn bã, cãi vã, bùng nổ cơn nóng giận là thói quen hàng ngày. Mặc dù vậy, tôi vẫn chưa đầu hàng. Để bào chữa cho mình, tôi đã nói rằng tôi muốn giúp đỡ những người đồng loại của mình bằng bùa ngải ma thuật này và tôi sẽ làm điều này thông qua đức tin vào Chúa. Người lạ sau đó giải thích như sau: “Thông qua việc sử dụng Thánh Danh của Chúa, ông đã báng bổ Chúa; vì thông qua việc sử dụng sai này, ông đã hạ thấp Ngài xuống thành người hầu của mình. Vì ông làm như vậy, ma quỷ giúp đỡ và lừa dối ông; vì nó vui mừng khi danh Chúa bị sử dụng sai. Ông cũng tự gánh lấy tội lỗi của bệnh nhân. Ông và con cái của ông sẽ rất bất hạnh vì ma thuật này.”
Lúc đầu tôi bác bỏ những lập luận như vậy. Tôi không tin vào điều đó. Nhưng lạ thay, tôi không thể quên lời cảnh báo này. Sau này tôi mới biết người lạ đó đang cầu nguyện cho tôi. Một trận chiến khủng khiếp bắt đầu trong tim tôi. Nó kéo dài trong nhiều tuần. Vợ tôi bị cuốn vào cuộc đấu tranh giữa ánh sáng và bóng tối này. Cuối cùng, tôi đã sẵn sàng từ bỏ phép thuật. Nhưng nói thì dễ hơn làm. Tôi muốn buông bỏ nhưng những thế lực đằng sau phép thuật không muốn buông bỏ tôi. Sau đó, tôi phát hiện ra rằng tôi không chế ngự những thế lực này mà chính những thế lực này chế ngự tôi. Vào khoảnh khắc tôi nhận ra mình là tù nhân, sự phòng thủ của tôi càng trở nên nồng nhiệt và quyết tâm hơn. Đây là cuộc chiến sinh tử. Vợ tôi đã trở thành người đồng hành quý giá trong cuộc chiến này. Chúng tôi cùng nhau tìm kiếm sự giúp đỡ từ Chúa, bắt đầu đọc Kinh thánh và cầu nguyện cùng các con. Và chúng tôi vẫn không bao giờ có thể tự mình làm được. Chúng tôi cảm thấy rằng mình được Chúa thương xót. Một cuộc phẫu thuật nghiêm trọng đã trở thành một trải nghiệm quyết định. Trái tim tôi đã phải chịu áp lực vì những cuộc chiến này. Trong bệnh viện, bác sĩ phẫu thuật phải đợi 24 ngày trước khi ông dám tiến hành phẫu thuật. Ca phẫu thuật đã thành công. Tôi đã được đưa đi một cách tuyệt vời và được trao trả lại cho gia đình. Trải nghiệm này khiến chúng tôi tràn ngập niềm vui và lòng biết ơn.
Một chỗ đứng khác trong cuộc chiến giải phóng đã giành được. Nhưng thực ra tôi vẫn chưa hoàn toàn được tự do. Một ngày nọ, khi đang đọc Kinh thánh, tôi tình cờ đọc được một đoạn trong Công vụ 19, 19: “Nhiều người trong số họ cũng sử dụng các phép thuật kỳ lạ đã gom sách vở của mình lại và đốt trước mặt mọi người.” Bây giờ tôi bắt đầu thấy con đường của mình. Tôi phải vứt bỏ tất cả các tài liệu huyền bí của mình. Tôi gom tất cả lại với nhau và ném vào lửa. Tất cả các kho báu được bảo vệ cẩn thận, như các công thức ma thuật tác dụng nhanh và các công thức đặc biệt đã đi đến kết cục xứng đáng của chúng. Những thần tượng trong nhà và các trung tâm quyền lực ma thuật này đã bị truất ngôi và loại bỏ. Với sự giúp đỡ của Chúa, một bước nữa đến với sự tự do và cứu trợ đã được thực hiện.
Nhưng trận chiến vẫn chưa kết thúc. Ma thuật luôn kéo theo một cái đuôi rồng dài của những sợi dây trói buộc đằng sau nó. Tất cả các nghệ sĩ da đen đều thể hiện tác dụng của ma thuật. Trường hợp của tôi cũng vậy. Trong cuộc đời tôi có nhiều đam mê công khai và bí mật, chẳng hạn như tính khí nóng nảy, chửi thề, ích kỷ, chơi bài, rượu, hút thuốc và nhiều thứ khác, không thể nói ra công khai. Càng lâu Đấng Christ chiếm ưu thế trong cuộc đời tôi, tôi càng trở nên ghê tởm tất cả những mối ràng buộc này. Cùng lúc đó, vợ tôi cũng trải qua một sự phát triển tương tự. Trong nhiều năm, cô ấy đã bị hành hạ bởi những cơn trầm cảm luôn xuất hiện trong những gia đình ma thuật năng động và con cháu của họ. Nhờ Đấng Christ và niềm vui lớn lao đã đến trong cuộc sống của chúng tôi, những cơn trầm cảm này đã biến mất hoàn toàn mà không cần bất kỳ phương pháp điều trị y tế nào. Điều này không có nghĩa là tất cả các cơn trầm cảm đều bắt đầu theo cách này. Có những tình trạng tâm lý phát triển từ một căn bệnh. Vợ tôi và tôi đã trải nghiệm rằng Đấng Christ có thể giải thoát chúng ta khỏi những mối ràng buộc tồi tệ nhất. Chúng tôi đã trải nghiệm sự thật của Luca 19, 10: “Con Người đã đến để tìm kiếm và cứu những gì đã mất”.
Sự giải cứu đã cho thấy những tác động của nó trong cuộc sống của tôi. Tôi nghĩ rằng nếu Chúa Jesus có thể giúp một tội nhân đáng thương như tôi về mặt tâm hồn và thể xác, thì Ngài có thể và sẽ giải cứu những người khác bị trói buộc theo cách tương tự. Do đó, sứ mệnh của tôi là giúp đỡ những người đã tích cực hoặc thụ động tham gia vào ma thuật và tất cả các nghệ thuật phù thủy khác. Tôi đã bắt đầu một mục vụ Phúc âm chống lại các vấn đề mê tín dị đoan. Sự tư vấn Cơ đốc giáo sâu rộng phát triển từ đó cho thấy con người hiện đại bị vướng vào những điều này sâu như thế nào mặc dù có tất cả sự khai sáng. Mặc dù có những ràng buộc khủng khiếp trong lĩnh vực này, không có trường hợp nào là vô vọng. Lời Chúa là đúng: “Nơi nào tội lỗi gia tăng, ân điển càng gia tăng nhiều hơn nữa”. Chiến thắng cuối cùng thuộc về Chúa Jesus Christ của chúng ta.
- Buechler
- Được Giải Thoát Khỏi Quyền Lực Của Bóng Tối
Trong một buổi truyền giáo, tôi đã nghe câu chuyện về một người nghiện rượu. Với sự cho phép đặc biệt, tôi muốn nhắc lại câu chuyện ở đây. Từ khi còn trẻ, anh ta đã là một kẻ bắt nạt và là một kẻ say rượu thường xuyên. Mười lăm lít rượu vang là lượng rượu anh ta tiêu thụ hàng ngày. Chỉ có một vài ngày trong năm anh ta tỉnh táo. Nếu không uống đủ, anh ta chạy loanh quanh như một con thú bị trọng thương. Chỉ một sự kiện nhỏ nhất cũng đủ để anh ta nổi cơn thịnh nộ và đập tan mọi thứ thành từng mảnh. Anh ta có một điểm yếu khác: phụ nữ. Không ai trong số họ an toàn trước anh ta.
Một số người cũng sẵn lòng, bởi vì mặc dù nghiện rượu, ông vẫn là một người đàn ông khỏe mạnh, cường tráng. Ông không muốn biết bất cứ điều gì về Lời Chúa. Tin vào Chúa đối với ông cũng giống như tin rằng có ma quỷ. Ông chỉ có sự khinh miệt cay đắng đối với tất cả các sự thật trong Kinh thánh. Chửi thề và nguyền rủa đã trở thành bản chất thứ hai của ông, khi ông ở cùng với những người cùng giống với mình. Một ngày nào đó, đây là ngày định mệnh của ông.
Trong quán trọ, một người đàn ông nói về ma thuật đen và khả năng gia nhập thế giới ngầm. Rất nhiều điều đáng sợ và kinh khiếp đã được kể. Một vài thanh niên cười và coi đó là mê tín ngớ ngẩn. Gã say rượu của chúng ta là người ồn ào nhất và hắn khoe khoang rằng hắn không sợ gặp quỷ và đối phó với nó. Với sự ồn ào lớn, những người bạn nhậu của hắn đồng ý với hắn. Một vụ cá cược trị giá 20 DM đã được thực hiện. Jochen, gã say rượu sẽ tự trình diện với quỷ dữ vào nửa đêm thứ sáu tại một ngã tư bên ngoài ngôi làng. Với một điều kiện nữa, hắn phải vẽ một vòng tròn xung quanh mình bằng phấn và sau đó gọi Lucifer ba lần. Một trong những người bạn của hắn đã đưa cho hắn bùa gọi Lucifer. Jochen đồng ý với những điều kiện này. Những người bạn của hắn đi cùng hắn một phần đường và sau đó để hắn một mình. Jochen làm theo chỉ dẫn, vẽ vòng tròn và đọc câu thần chú gọi ba lần. Hắn chờ đợi phản ứng đầy mong đợi. Không có gì xảy ra. Hắn đắc thắng trở về với những người bạn của mình và nhận tiền cược.
Tuy nhiên, niềm vui của Jochen đến quá sớm. Khi anh đi ngủ vào đêm hôm sau, anh đột nhiên nhìn thấy một khuôn mặt khủng khiếp trên bức tường đối diện giường đang từ từ tiến về phía anh. Anh nằm đó như thể bị tê liệt và không thể cử động một ngón tay. Khuôn mặt tiến lại gần hơn cho đến khi chỉ còn cách anh khoảng một gang tay. Anh vô cùng sợ hãi. Cuối cùng, khuôn mặt lại lùi lại. Chỉ đến lúc này, anh mới có thể hét lên. Anh rể và chị gái sống ở tầng trên đã chạy xuống sau khi nghe thấy tiếng hét giết người của anh. Họ đã đi đến cửa phòng nhưng không thể vào được. Họ đứng trước ngưỡng cửa. Cảnh tượng khuôn mặt này lặp lại thường xuyên nhưng chỉ khi anh tỉnh táo. Các thành viên trong gia đình luôn nói với anh rằng họ không thể vào phòng, một sức mạnh không thể giải thích được đang ngăn cản họ. Cuối cùng, những hiện tượng ma quái này đã quá sức chịu đựng đối với Jochen. Anh đã tham khảo ý kiến bác sĩ để tìm hiểu xem anh đã đạt đến giai đoạn mê sảng hay ảo giác do rượu. Bác sĩ đã khám kỹ lưỡng và phủ nhận cả hai khả năng. Bác sĩ xác nhận rằng anh có một trái tim khỏe mạnh và thể chất cường tráng. Khi gã say rượu kể lại chi tiết về những trải nghiệm của mình với khuôn mặt quỷ dữ, vị bác sĩ trở nên trầm ngâm. Ông không coi những hình ảnh ma quái này là trò bịp bợm hay sự căng thẳng thần kinh quá mức mà là một cơ đốc nhân, ông coi chúng là điều nghiêm trọng. Ông nói với anh ta: “Nếu anh đã làm một điều như vậy, thì đã đến lúc anh phải đến với Đấng Christ, nếu không thì ma quỷ chắc chắn sẽ bắt anh đi.” Vì bác sĩ và gã say rượu quen biết nhau từ thời quân ngũ, nên ông nói với anh ta: “Điều đó có nghĩa là: Quay lại ngay, nếu anh không muốn tự hủy hoại mình.” Những gì Jochen không muốn nhận từ bất kỳ mục sư nào thì ông đã nhận từ bác sĩ. Ông bắt đầu tìm kiếm Đấng Christ một cách nghiêm túc. Những hình ảnh khuôn mặt quỷ dữ đã khiến ông sốc đến nỗi ông không thể nghỉ ngơi cả ngày lẫn đêm. Ông quỳ xuống và cầu xin Chúa giải thoát khỏi rượu, khỏi cuộc sống vô đạo đức, khỏi tính khí xấu và khỏi móng vuốt của Satan. Ông đã phạm tội một cách cực đoan như thế nào thì giờ đây ông cũng đang cam kết cuộc đời mình với Đấng Christ. Ông đã trải qua những ngày ăn năn sâu sắc nhất và tuyệt vọng bên trong. Nhưng đó là một loại tuyệt vọng dẫn đến lòng tin. Đấng Christ đã tiếp nhận ông. Ông đã trải qua sự giải thoát hoàn toàn. Từ khoảnh khắc đó, khuôn mặt của quỷ dữ đã hoàn toàn biến mất. Đối với Jochen, đây là sự xác nhận rằng những lần xuất hiện này không phải là dấu hiệu của chứng mê sảng run rẩy bắt đầu. Chúng là hậu quả của việc ông gọi Lucifer hàng đêm. Nhờ Chúa Giêsu Christ, cuộc sống của người nghiện rượu trước đây đã hoàn toàn đổi mới. Từ thời điểm đó, không còn rượu trong cuộc sống của ông nữa. Mười hai năm đã trôi qua kể từ đó. Đối với những người xung quanh, ông đã trở thành một nhân chứng sống cho quyền năng giải thoát của Đấng Christ. Ông tích cực làm việc trong nhà thờ và các sứ mệnh cứu giúp của mình. Ông được bầu vào ban lãnh đạo của nhà thờ. Tội lỗi đã dẫn ông đến bờ vực địa ngục. Tuy nhiên, quyền năng của Đấng Christ đã kéo ông ra khỏi sự thống trị của Satan. Từ thời điểm đó, bài ca ngợi khen của hội thánh sơ khai vang lên trong lòng Jochen: ” Hãy tạ ơn Đức Chúa Cha, Ngài đã khiến anh em có thể dự phần cơ nghiệp của các thánh trong sự sáng láng: Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu dấu Ngài” (Cô-lô-se 1, 12-13).
- Chiến Đấu Với Người Phụ Nữ Bị Quỉ Ám
Một người bạn Thụy Sĩ của tôi đã kể cho tôi nghe về trải nghiệm tư vấn khó khăn nhất của ông ấy. Nó liên quan đến việc tư vấn và chăm sóc chị dâu của ông. Để hiểu rõ hơn về trường hợp này, chúng ta sẽ tiếp cận nó một cách có hệ thống. Tình trạng của bệnh nhân: Trong nhiều năm, bà ấy đã phải chịu đựng chứng trầm cảm, nghi ngờ, khó khăn trong việc tin tưởng. Khi bà ấy gặp phải những điều trong Kinh thánh – cho dù đó là Lời Chúa, nhà thờ, hình ảnh Cơ đốc giáo – bà ấy đã thể hiện sự phản đối dữ dội. Bất kỳ nỗ lực nào để khuyến khích bà về mặt tôn giáo, bà ấy đều ngay lập tức nổi giận và khó chịu. Các nhà tâm lý học sẽ nói rằng bà ấy có một mặc cảm chống tôn giáo do được nuôi dưỡng quá mức về tôn giáo trong thời thơ ấu hoặc do nền giáo dục chống lại Cơ đốc giáo. Nuôi dưỡng quá mức không phải là nguyên nhân; vì người mẹ thậm chí còn muốn biết ít hơn về những điều trong Kinh thánh so với con gái mình. Cô con gái đã thể hiện đặc điểm thường thấy của người bị quỷ ám, một mặt là sự phản cảm dữ dội đối với những điều thiêng liêng, mặt khác là động lực và khao khát đến với Đấng Christ. Bác sĩ tâm thần sẽ gọi đó là nhân cách phân liệt. Ngoài ra, cần lưu ý rằng bệnh nhân thường xuyên quan sát thấy hiện tượng ma quái trong phòng mình khi còn nhỏ. Khi cô ấy hét lên vì sợ hãi, cô ấy đã bị những con ma này đánh.
Tiền sử huyền bí của bệnh nhân: Khi trả lời các câu hỏi, người phụ nữ thừa nhận rằng cô thường nhờ đến thầy bói. Mẹ cô cũng bói bài. Trong quá trình tư vấn, một yếu tố quyết định đã được đưa ra ánh sáng và sẽ được đề cập ở đây. Mẹ cô đã hứa và ký gửi đứa trẻ vẫn chưa chào đời cho quỷ dữ. Khi bắt đầu tư vấn, sự thật này vẫn chưa được biết đến.
Điều trị cho đến lúc đó: Trong một thời gian, các thành viên của một giáo phái cuồng tín đã chăm sóc bệnh nhân. Cô ấy đã được cầu nguyện dưới sự đặt tay. Sau đó, cô ấy tệ hơn trước. Sau trải nghiệm tồi tệ này, cô ấy tránh xa tôn giáo, như cô ấy đã nói. Sau đó, cô ấy đã được một số bác sĩ thần kinh điều trị. Cô ấy cũng đã ở trong một bệnh viện tâm thần trong một thời gian ngắn. Việc chẩn đoán lặp đi lặp lại của các chuyên gia là rất quan trọng. Cô ấy đã được nói đi nói lại rằng: “Bà bình thường về mặt tinh thần, nhưng bà bị rối loạn tâm lý.”
Buổi tư vấn của cơ đốc nhân mà bạn tôi bắt đầu nhằm mục đích chỉ cho người phụ nữ cách thoát khỏi nỗi đau khổ về mặt tâm lý. Đầu tiên, ông ấy hỏi bệnh nhân: “Bà có phạm phải tội lỗi ma thuật không?” Câu hỏi được trả lời bằng một lời thú tội. Nỗ lực chỉ cho cô ấy cách thoát khỏi sự khuất phục huyền bí từ Kinh thánh đã kết thúc bằng việc bệnh nhân bắt đầu run rẩy, chửi thề và nguyền rủa khủng khiếp. Mặt khác, cô ấy tạo ấn tượng rằng cô ấy đang khao khát sự giúp đỡ và giải thoát. Vì mỗi lần cầu nguyện, những chuyển động co giật điển hình xuất hiện, nên người tư vấn có ấn tượng rằng anh ta có thể đang đối phó với những ảnh hưởng của ma quỷ hoặc thậm chí là bị quỷ ám. Ý kiến này được củng cố thông qua quan sát rằng bệnh nhân trở nên im lặng mỗi khi anh ta ra lệnh nhân danh Chúa Jesus. Một ngày sau khi ra lệnh cho các thế lực đen tối, cô ấy thậm chí có thể tin vào sự cứu chuộc của Đấng Christ và sự tha thứ tội lỗi của mình.
Sau khởi đầu đầy hứa hẹn này, buổi tư vấn đã chuyển thành một trận chiến đầy kịch tính. Giai đoạn đầu tiên của trận chiến là một cuộc tấn công bằng dao. Sau khi bệnh nhân đã học cách tin vào Đấng Christ vào ngày hôm trước, cô ấy đã tái phát vào ngày thứ hai và tấn công anh rể của mình bằng dao. Sau khi ông ra lệnh cho các thế lực bóng tối nhân danh Chúa Jesus, cuộc chiến đã tạm dừng. Kẻ tấn công đã im lặng và thậm chí xin lỗi vì hành vi của mình. Cùng ngày, bệnh nhân đã tham dự một buổi nhóm truyền giáo do cố vấn của cô dẫn đầu, và cuối cùng cô ấy đã tham dự Tiệc Thánh. Khi cô ấy sắp nhận bánh tại bàn thờ, cô ấy bắt đầu run rẩy. Anh rể đã quan sát thấy điều này và ra lệnh cho các thế lực bên trong. Sau đó, cô ấy có thể lặng lẽ nhận lấy bánh. Trong khi nhận chén, điều tương tự đã xảy ra. Một lần nữa, người cố vấn chu đáo ra lệnh bên trong với kết quả tương tự. Bệnh nhân được củng cố bởi điều này và trở về nhà trong niềm vui.
Giai đoạn thứ hai của trận chiến dẫn đến sự cố chập mạch tâm linh. Sau chuyến thăm kéo dài tám ngày tại nhà anh rể, bệnh nhân lại phải trở về với gia đình. Mỗi lần trở về với người thân, tình trạng của cô lại trở nên tồi tệ hơn. Vào thời điểm đó, Billy Graham đã tổ chức một buổi nhóm ở Zurich. Bạn tôi đã gửi cho người phụ nữ một lời mời và hứa sẽ đón cô bằng xe của mình. Bệnh nhân đã đi cùng anh đến sân vận động. Trong suốt buổi thuyết giáo, cô run rẩy khắp người. Anh rể đã cầu nguyện cùng cô. Sau đó, cô lại im lặng. Vài ngày sau, cô lại tái phát. Cô đã cố gắng tự tử và đã được đưa đến bệnh viện. Các bác sĩ nghĩ rằng bệnh nhân đang sống trong một môi trường không phù hợp. Chuyên gia tư vấn lại có một ý tưởng khác. Trong thời gian đó, ông đã nghiên cứu lịch sử gia đình khủng khiếp bị nhiễm tà thuật của người phụ nữ này. Không có nghệ thuật ma thuật đen nào mà gia đình này chưa từng thực hành. Ông phát hiện ra một điểm tương đồng lớn với trường hợp của một người phụ nữ tên là Gottliebin Dittus, người mà Mục sư Blumhardt đã phải chiến đấu trong suốt 18 tháng. Trong bệnh viện, bệnh nhân không thể ngủ mặc dù đã dùng thuốc an thần mạnh nhất. Sau khi xuất viện, cô được chuyển đến một bác sĩ tâm thần. Ông ra lệnh cho cô vào bệnh viện tâm thần. Cô được điều trị bằng cách sốc insulin và ngủ kéo dài nhưng không có chút cải thiện nào. Theo kinh nghiệm nhiều năm của tôi với những bệnh nhân như vậy, phải nói rằng họ không phải là ca dành cho các bác sĩ tâm thần mà phải là các chuyên gia tư vấn Cơ đốc giáo. Các bệnh tâm thần và nhiều nhóm bệnh về cảm xúc thuộc về lĩnh vực tâm thần học. Những người bị quỷ ám không phải là dành cho bác sĩ mà là của các chuyên gia tư vấn Cơ đốc giáo. Nhưng thực tế là có rất ít các chuyên gia tư vấn có khả năng xử lý những người bị ám ảnh như vậy.
Giai đoạn thứ ba của cuộc chiến mang lại những sự phấn khích thường lệ và sau đó là những khoảng thời gian yên tĩnh. Nhà thờ của người cố vấn tổ chức một tuần lễ truyền giáo. Chị dâu được mời đến dự tuần này. Bệnh nhân nghe thấy một thông điệp, chạy ra ngoài trong tức giận và hét lên: “Tôi sẽ tự tử. Tôi sẽ kết thúc cuộc đời mình”. Anh rể của cô đã chặn cô lại và đưa cô vào phòng làm việc của anh ta. Bệnh nhân vẫn tức giận và hét lên: “Có điều gì đó sẽ xảy ra đêm nay. Hoặc là tôi hoặc nhà truyền giáo đã truyền đạt thông điệp sẽ chết”. Anh rể của cô trả lời: “Không ai sẽ chết. Chúa Jesus là Đấng chiến thắng”. Anh ấy cầu nguyện cùng cô. Cuối cùng cô chắp tay và cũng cầu nguyện. Cô lặng lẽ bước ra khỏi phòng và có một đêm nghỉ ngơi.
Giai đoạn thứ tư của cuộc chiến đã đưa một yếu tố mới vào vụ việc. Ngày hôm sau, một ngày Chủ Nhật, bệnh nhân tham gia cả ba buổi lễ mà không có lời mời đặc biệt. Vào buổi tối, cô đã hẹn gặp nhà truyền giáo. Ông đã nghe lời thú tội của cô và giống như Anh V., người cố vấn của cô, người truyền giảng có ấn tượng rằng có sức mạnh ma quỷ đang hoạt động. Ông ta hỏi người phụ nữ đang thú tội: “Cô đã bao giờ tham gia vào trò phù thủy, ma thuật, tâm linh, bói toán hoặc những thứ tương tự chưa?” Câu hỏi này đã được trả lời là có. Sau đó, nhà truyền giáo đã ra lệnh cho những sức mạnh này rút lui nhân danh Chúa Jesus. Trong khi đó, Anh V. đã nhận được thêm thông tin về các hoạt động huyền bí của mẹ bệnh nhân. Do đó, sau buổi tư vấn của nhà truyền giáo khác, anh ta đã cầu nguyện: “Lạy Chúa Jesus, xin hãy giải thoát chị dâu của con khỏi tội lỗi và sự khuất phục từ mẹ cô ấy.” Vào lúc này, bệnh nhân đã nổi cơn thịnh nộ dữ dội. Cô tấn công người cố vấn. Đột nhiên, một giọng nói lạ vang lên từ cô những lời sau: “Đây là con gái ta. Nó phải chết.” Anh V. nhận ra ngay tình hình. Anh trả lời ngay: “Không, bà ta không được chết. Là mẹ của cô gái, ngươi phải từ bỏ cô ta”. Sau đó, giọng nói lạ trả lời: “Con gái ta thuộc về quỷ dữ. Ta đã ký kết máu của con bé với quỷ dữ khi còn là một đứa trẻ”. Anh V. ra lệnh cho giọng nói này: “Ngươi là Linh của người mẹ không còn quyền gì ở đây nữa. Huyết của Chúa Jesus là đủ cho con gái ngươi. Cô gái được cứu chuộc qua Đấng Christ”. Sau đó, giọng nói lạ trả lời: “Nếu tôi buông bỏ con gái mình, tôi sẽ mất trí. Tôi sẽ phát điên nếu tôi đầu hàng”. – Trong thời gian diễn ra trận chiến này, mẹ của bệnh nhân vẫn còn sống. Anh V. trả lời: “Cho dù ngươi có mất trí thì ngươi cũng phải buông bỏ con gái mình”. Sau cuộc đấu khẩu kỳ lạ này, bệnh nhân đã hoàn toàn kiệt sức. Nhưng cô ấy có thể cầu nguyện trong im lặng. Trong giai đoạn này của trận chiến, một sinh vật lạ đã xuất hiện từ bên trong bệnh nhân. Tình huống tương tự như trong báo cáo Kinh thánh trong sách Mác 5. Những điều như vậy có thể được tìm thấy trong Kinh thánh, trong lịch sử nhà thờ, trong lịch sử truyền giáo và trong thời điểm hiện tại. Tôi đã viết ra một số trường hợp như vậy.
Giai đoạn thứ năm của cuộc chiến đã hé lộ một sự thật mới, làm sáng tỏ thêm câu chuyện. Ngày hôm sau, nhà truyền giáo đến thăm đã thách thức khán giả của mình đưa ra quyết định theo Đấng Christ. Bệnh nhân đã quyết định trong lòng: “Tôi muốn trở thành một trong những người theo Đấng Christ”. Trong vài ngày, cô tràn đầy niềm vui. Sau ngày thứ ba, cô lại tái phát. Khi đang ăn sáng, cô đột nhiên ngừng ăn. Cô bắt đầu run rẩy. Khuôn mặt cô biến dạng thành một cái nhăn mặt khủng khiếp. Trong nỗi sợ hãi, cô gọi anh rể. Anh vội vã đến bên cô và cầu nguyện cùng cô. Lần này, cô không im lặng trong khi cầu nguyện. Cô tuyên bố rằng phải có một sức mạnh kỳ lạ khác bên trong cô. Cô thường nhìn thấy một hình bóng lạ mà không nhận ra đó là ai. Sau đó, Anh V. ra lệnh cho linh ô uế rời khỏi cô. Sau đó, một giọng nói bắt đầu phát ra từ bệnh nhân nhưng đó là một giọng nói khác so với trước đây. Giọng nói thứ hai này giải thích: “Ta sẽ không rời xa cô ấy. Ta đã ở bên trong cô ấy trong một thời gian dài rồi”. Anh V. hỏi: “Nhưng ngươi là ai?” Giọng đó nói: “Ta là một người Digan già.” Vào lúc này, bệnh nhân cầm lấy con dao cắt bánh mì trên bàn và cố gắng tấn công anh rể của mình. Anh V. nắm lấy cánh tay cô và cầu nguyện. Bệnh nhân im lặng, cất con dao đi và bắt đầu khóc. Cô ấy hoàn toàn tỉnh táo trong suốt thời gian đó.
Giai đoạn thứ sáu của trận chiến đã đưa đến đỉnh điểm của cuộc chiến đầy kịch tính này. Ngày hôm sau, giọng nói thứ hai lại bắt đầu nói ra từ bệnh nhân. Giọng nói đó chế giễu. “Các người đều sợ hãi. Các người đang run rẩy.” Anh V. trả lời: “Không, ta không sợ.” Sau đó, tiếng cười ghê tởm lại phát ra từ bệnh nhân. “Các người không thể làm gì được. Chúng ta là quân đoàn và tự vệ đến cùng. Các bác sĩ trong bệnh viện tâm thần cũng không biết ai là kẻ đứng sau căn bệnh này.” Lần đầu tiên, vợ của người cố vấn ngắt lời và gọi: “Vậy thì hãy lao vào lũ lợn, nếu các người là quân đoàn.” “Không, chúng ta muốn ở lại trong con người. Chúng ta sẽ lao vào các người.” Anh V. trả lời: “Điều đó là không thể. Chúng ta thuộc về Đấng Christ.” “Vậy thì chúng tôi sẽ lao vào vợ anh.” “Ngươi không thể làm vậy, cô ấy cũng thuộc về Đấng Christ.” “Vậy thì chúng tôi sẽ lao vào con cái anh. Chúng tôi đã làm cho con trai anh bị bệnh rồi.” Trên thực tế, con trai Thê-ô đã bị bệnh. “Chúng tôi sẽ làm cho nó tệ hơn nếu chúng tôi được phép.” Anh V. trả lời: “Ngươi không được phép làm thế. Tất cả con cái tôi đều thuộc về Chúa Jesus.” “Sau đó, chúng ta sẽ lái xe vào nhà thờ và phá hủy nó. Chúng ta biết những linh nào không tỉnh thức.” “Ngươi cũng không thể làm thế. Đấng Christ đang canh giữ Hội Thánh của Ngài.” Vào lúc này, bệnh nhân bắt đầu bỏ chạy. Anh V. giữ cô ta lại và đẩy cô ta xuống ghế dài. Cô ta nhảy lên và cố gắng lấy lại con dao. Sau đó, Anh V. ra lệnh cho quân đoàn ra khỏi cô ta. Trong khi ra lệnh, đột nhiên nhiều giọng nói rên rỉ phát ra từ bệnh nhân: “Cuối cùng ông sẽ không dừng cầu nguyện sao?” Anh V.: “Không, chúng tôi sẽ không dừng lại cho đến khi tất cả các người bị đuổi ra ngoài.” Những giọng nói hỏi: “Ngươi được gì khi chỉ có một linh hồn thôi?” Anh V.: “Đối với Đấng Cứu Rỗi, một linh hồn duy nhất còn đáng giá hơn cả thế giới.” Những giọng nói: “Chúng tôi sẽ không ra khỏi người phụ nữ, nếu không cô ta sẽ về nhà và làm chứng cho môi trường xung quanh và cướp đi những linh hồn khỏi chúng tôi. Hãy ngừng cầu nguyện ngay bây giờ. Có người khác cũng đang cầu nguyện trong nhà.” Anh V. không biết rằng các con của anh đã tụ tập trong một căn phòng và cũng đang cầu nguyện. Vì vậy, anh trả lời: “Vâng, Đấng Cứu Rỗi cũng đang cầu nguyện cho các ngươi.” Những giọng nói kích động: “Không, không, Ngài không cầu nguyện cho chúng ta.” Vào lúc này, bệnh nhân nhìn một cách căm ghét vào bức tranh của Đấng Christ. Anh V. trả lời: “Vâng, Ngài không cầu nguyện cho các linh, mà cho ngươi, người con gái tội nghiệp. Ngươi có thể được giải thoát thông qua Đấng Christ.” Những giọng nói: “Chúng tôi không thể chịu đựng được việc cầu nguyện của ngươi lâu hơn nữa.” Đó là một cuộc chiến kéo dài ba giờ giữa những thế lực bóng tối này với Anh V. cùng với vợ và mười người con đang hỗ trợ cầu nguyện trong một căn phòng khác. Sau cuộc đấu tranh dài này, người tư vấn một lần nữa ra lệnh cho những linh ô uế rời đi. Đột nhiên bệnh nhân trở nên im lặng. Cô khóc và bắt đầu cầu nguyện. Sau khi được giải thoát, bệnh nhân phải chịu đựng những cơn đau thể xác khủng khiếp trong một ngày. Vào ngày cuối cùng của các buổi lễ truyền giáo, cô đã làm chứng về Đấng Christ. Cơn đau biến mất. Vào Chủ Nhật, cô vui vẻ tham gia vào Tiệc Thánh. Trong khi trước đây cô luôn có cảm giác như thể các thế lực bóng tối đang cố gắng bóp nghẹt bà khi tham gia Tiệc Thánh, thì giờ đây cô có thể làm như vậy mà không bị quấy rầy hay cản trở. Đấng Christ đã giành chiến thắng trong trận chiến với con người tội nghiệp, bị trói buộc này. Vì mục đích này, Con Đức Chúa Trời đã được biểu lộ để Ngài có thể hủy diệt các công trình của ma quỷ.
Otto Vogt
- Người Mạnh Mẽ Hơn
Gần Madang ở Đông Bắc New Guinea là bệnh viện truyền giáo Jagaum. Một ngày nọ, một thanh niên Cơ đốc giáo Papua Koimbo được đưa đến bệnh viện, anh là người đầu tiên mang Phúc âm từ bờ biển đến bộ lạc của mình trên núi. Bộ lạc mà Koimbo thuộc về là những người thờ thần tượng và chỉ một số ít người trong bộ lạc của anh được đưa đến để tin vào Danh của Đấng Christ và từ bỏ các thần linh. Tất nhiên, nhóm nhỏ này đã bị những người đồng bộ lạc của họ ngược đãi dữ dội. Koimbo thường gặp nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng kẻ thù của anh không dám giết anh một cách công khai và ăn thịt anh như mười năm trước đây phong tục vẫn làm. Vì vậy, họ đã cầu xin một pháp sư khét tiếng để từ khử anh. Ông phù thủy đã sẵn sàng ngay lập tức vì ông cũng lo sợ cho ảnh hưởng của mình. Vì vậy, ông đã nhận được khoản tiền được trả và bắt đầu công việc ma quỷ của mình. Ông đã gọi các linh hồn đến trừng phạt Koimbo vì anh là một Cơ đốc nhân đang can thiệp vào quyền lực của họ.
Koimbo thường gặp một số ít cơ đốc nhân trong rừng vì không thể tổ chức lễ trong một trong những túp lều của làng. Dân làng sẽ ngăn cản điều đó. Nhưng ngay cả trong các buổi nhóm của họ trong rừng, những cơ đốc nhân cũng không phải là không bị phát hiện. Vì vậy, một lần nữa Koimbo lại tổ chức một buổi lễ. Cùng lúc đó, pháp sư thực hiện ma thuật nham hiểm của mình thì điều khủng khiếp đã xảy ra. Koimbo vừa đọc Kinh thánh bằng giọng nói lớn thì đột nhiên anh dừng lại, ôm đầu và kêu lên: “Tôi không nhìn thấy gì cả”. Những người bạn của anh nhảy lên và dẫn anh ra ngoài trời. Họ đợi anh lấy lại thị lực nhưng vô ích. Koimbo vẫn mù lòa trước sự thích thú của những kẻ ngoại đạo.
Sau vài tuần ở trong túp lều của mình, bên trong và bên ngoài đều suy yếu, bạn bè đã đưa anh đến bệnh viện ở Jagaum. Khi họ dẫn anh ra khỏi làng, tất cả dân làng đứng trước túp lều của họ chế giễu và nhạo báng anh và vị pháp sư già đã chiến thắng: “Bây giờ ngươi thấy rồi đấy, thần linh của chúng ta chắc chắn vĩ đại hơn Chúa của cơ đốc nhân.”
Trong bệnh viện, Koimbo được tiếp đón rất nồng nhiệt. Nhưng sau khi kiểm tra kỹ lưỡng, bác sĩ chỉ có thể xác nhận rằng cả hai mắt của anh đã bị mù hoàn toàn và không có triển vọng anh sẽ lấy lại được thị lực. Đây là một thông điệp khó khăn đối với người bệnh. Anh gần như tuyệt vọng.
Vào buổi tối, người y tá da trắng đi qua phòng bệnh và đứng bên giường của Koimbo. “Anh khỏe không?” cô hỏi anh. Anh sờ tay cô và nói: “Ôi chị ơi, việc tôi bị mù không phải là điều tồi tệ nhất đối với tôi. Nhưng việc tôi không còn cảm nhận được bàn tay của Chúa nữa và phải tin rằng tôi đã bị giao cho các thần linh ma quỷ, đó là điều khủng khiếp nhất.” Lời này đâm thấu trái tim của cô y tá. Liệu có thực sự như vậy không? Liệu các thế lực ma quỷ có nên giữ chiến thắng không? Không được như vậy.
“Koimbo, chúng ta muốn cầu nguyện với Chúa của chúng ta. Ngài chắc chắn sẽ lắng nghe chúng ta. Những linh ma quỷ không được phép nói lời cuối cùng. Chúa Jesus là Đấng chiến thắng.” Vì vậy, cả hai bắt đầu cầu nguyện với Chúa, Đấng đã từng mở mắt cho người mù và giải thoát con gái của người phụ nữ Ca-na-an khỏi quyền lực của quỷ dữ. Cả đêm họ nhắc nhở Chúa về những lời hứa của Ngài cho đến khi bình minh.
Rồi đột nhiên Koimbo hét lớn: “Chị ơi, em thấy chị rồi. Em thấy chị rồi. Anuto (Chúa) đã giúp em. Anuto thật tuyệt vời.” Tất cả các y tá và trợ lý đều chạy đến. Tất cả đều vô cùng xúc động và tràn đầy niềm vui và lòng biết ơn.
Bây giờ Koimbo cảm thấy thôi thúc muốn quay trở lại làng của mình. Anh muốn trở thành một nhân chứng sống cho những người dân làng của mình rằng Chúa Jesus là Đấng mạnh mẽ hơn, Ngài có thể nghiền nát các thế lực của địa ngục.
- Vậy Nếu Con Giải Thoát Các Ngươi…
Một ngày nọ, tại trạm truyền giáo của chúng tôi ở Lishui, một sứ giả đến với yêu cầu rằng một vài phụ nữ Cơ đốc nên đến nhà của người bán muối ở cổng nước. Người bán muối và vợ ông là thành viên của nhà thờ chúng tôi. Tôi bắt đầu đi cùng với một vài phụ nữ Cơ đốc trung thành, người phụ nữ của Lời Chúa, vợ của nhà truyền giáo, vợ của giáo viên truyền giáo và vợ của người bán thuốc. Trong nhà của người bán, chúng tôi tìm thấy một người phụ nữ gầy gò khủng khiếp. Bà được giới thiệu với chúng tôi là chị dâu, người đã được khiêng trên một chiếc ghế di động trong chặng đường sáu giờ để được Chúa của những người Cơ đốc giáo giúp đỡ.
Lúc đầu chúng tôi nhận được báo cáo bệnh tật thông thường. Người họ hàng đã bị Fan yiao, con quỷ gây ra rất nhiều rắc rối cho những người ngoại đạo, hành hạ. Người ta đã cầu cứu nhiều thần tượng. Mọi thứ đều vô ích. Bây giờ Chúa của những cơ đốc nhân sẽ chứng minh quyền năng của mình đối với bà. Khi nghe báo cáo này, vợ của người bán muối trở nên sợ hãi, vì Fan yiao là một bệnh dịch khủng khiếp. Không ai trong số những người ngoại đạo an toàn trước nó. Những cơ đốc nhân cũng lo lắng về điều đó. Nhưng bà không thể đuổi em gái mình đi và không thể ngăn cản cô ấy ở lại nhà mình.
Sau khi báo cáo kết thúc, tôi và các bạn đồng hành bắt đầu hát bài hát: “Danh Y Độc Nhất” (thánh ca 249). Những cơ đốc nhân của chúng tôi thích bài hát này vì Danh của Chúa Jesus thường được nhắc đến. Họ nói rằng: “Ma quỷ chạy trốn khi nghe Danh của Chúa Jesus”. Sau đó, Phúc âm của Chúa Jesus được kể cho người phụ nữ bị quỷ ám. Lúc đầu, bà không hiểu nhiều về nó. Bà chỉ nắm bắt được một điều mà Chúa Jesus có thể giúp bà. Bà bám vào điều này bằng tất cả sức mạnh của mình. Chúng tôi cầu nguyện cùng bà. Tôi vui mừng khi thấy đức tin mạnh mẽ như trẻ thơ của những người bạn đồng hành Trung Quốc của tôi. Người phụ nữ ngoại đạo bị bệnh cũng được dạy cách kêu cầu Chúa Jesus giúp đỡ và tin tưởng vào Ngài. Ngày hôm sau, chúng tôi lại trở về. Chúng tôi vô cùng vui mừng khi nghe rằng đêm đã trôi qua mà không có sự quấy rầy. Bây giờ, chúng tôi đã sắp xếp giữa những phụ nữ cơ đốc rằng mỗi ngày hai người khác sẽ đến thăm người phụ nữ ngoại đạo và cầu nguyện cùng bà. Chúng tôi thấy rằng người phụ nữ bị bệnh này có thể ngủ ngon giấc đêm này qua đêm khác mà không bị quấy rầy.
Một ngày nọ, trong chuyến viếng thăm của những người phụ nữ Cơ đốc, người phụ nữ ngoại đạo đã rất tuyệt vọng. Bà khóc: “Nó lại tìm thấy tôi, nó lại tìm thấy tôi”. Đêm đó, bà lại bị hành hạ. Bà giải thích rằng con quỷ đã đến với bà dưới hình dạng một con mèo đen và đã quấy rối bà. Ngay lập tức, người phụ nữ của Lời Chúa của chúng tôi hỏi: “Bà lại liên quan gì đến các thần tượng nữa sao?” Lúc đầu, người phụ nữ ngoại đạo không muốn nói ra sự thật. Cuối cùng, bà đã sẵn sàng thú nhận. Chồng bà đã đến thăm bà và rất vui mừng về việc chữa lành. Khi rời đi, ông nói với vợ: “Bà biết rằng chúng ta đã hứa sẽ tặng một con lợn béo cho thần tượng nếu thần tượng chữa lành cho bà. Bây giờ tôi sẽ đi và giữ lời hứa này. Sau cùng, sao mà biết chắc chắn ai đã giúp bà”. Người phụ nữ đồng ý. Người chồng rời đi với ý định này. Cùng đêm đó, người phụ nữ lại bị kẻ thù hãm hại. Những người phụ nữ Cơ đốc của chúng tôi khuyên bà nên cử một sứ giả đến gặp chồng ngay lập tức rằng trong mọi điều kiện, ông không được hiến tế bất cứ thứ gì cho các thần tượng. Vinh quang này chỉ thuộc về Chúa Jesus, Đấng đã chạm vào và chữa lành cho vợ ông. Lời khuyên này đã được thực hiện ngay lập tức.
Sau trải nghiệm tồi tệ này, người phụ nữ vô cùng sợ hãi đã cầu xin được đưa đến trạm truyền giáo. Nhưng chúng tôi không có chỗ cho bà. Sau đó, người phụ nữ của Lời Chúa nói: “Tôi sẽ đưa bà ấy về. Bà ấy có thể sống trong phòng với tôi và ngủ trên giường của tôi.” Bốn người thường ngủ chung trên những chiếc giường lớn của người Trung Quốc. Sau đó, người phụ nữ ngoại đạo chuyển đến sống với người phụ nữ Cơ đốc. Bà ở đó trong ba tuần và nghe Lời Chúa hàng ngày. Vì bà vẫn khỏe mạnh trong suốt thời gian đó nên bà muốn trở về nhà vào tháng 11. Khi bà rời đi, bà nói: “Nếu tôi vẫn khỏe mạnh thì tôi sẽ đến vào dịp Giáng sinh và ăn mừng cùng mọi người.” Vào đầu kỳ nghỉ, chúng tôi chờ bà trở về. Khi bà không đến vào ngày đầu tiên của Giáng sinh, người phụ nữ Kinh thánh trung thành của chúng tôi tuyên bố rằng bà sẽ bắt đầu cuộc hành trình dài để gặp người phụ nữ ngoại đạo được chữa lành. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Vào ngày Giáng sinh thứ hai, người phụ nữ ngoại đạo của chúng tôi đã đến trong sự rạng rỡ và mang theo một lễ tạ ơn lớn. Bà đã được tự do trong tất cả các tuần qua. Vì một trận lụt lớn nên bà không thể đi vào ngày đầu tiên của Giáng sinh. Nỗi lo lắng của chúng tôi là không có cơ sở. Người phụ nữ được giải cứu đã tràn đầy lời ca ngợi và lòng biết ơn vì sự giúp đỡ của Chúa. Niềm tin của bà vào Đấng Christ đã được củng cố qua trải nghiệm này. Bà là Cơ đốc nhân duy nhất trong một khu vực hoàn toàn ngoại đạo. Trong nhiều năm trong những lần viếng thăm, chúng tôi có thể thấy rằng bà vẫn trung thành với Chúa Jesus. Sau đó, chúng tôi mất liên lạc với bà vì chúng tôi không thể đi vào khu vực này nữa do tình trạng bất ổn do các băng cướp và chiến tranh Nga-Nhật gây ra.
- Nhân Danh Ta, Họ Sẽ Trừ Quỷ
Ở một trong những trạm xa xôi của chúng tôi, có một nhà truyền giáo người Trung Quốc trung thành, ông có nhiều thẩm quyền trong việc cầu nguyện. Trong khu vực trạm truyền giáo này có tương đối nhiều trường hợp bị quỷ ám. Thật đáng kinh ngạc khi người Trung Quốc có thể phân biệt giữa bệnh tâm thần và trường hợp bị quỷ ám với sự hiểu biết và độ chính xác như thế nào. Về mặt này, họ vượt trội hơn nhiều bác sĩ tâm thần châu Âu, những người chỉ biết đến các trường hợp cuồng loạn nghiêm trọng chứ không biết đến trường hợp bị quỷ ám. Nếu nhà truyền giáo này có cảm nhận rằng đây trường hợp đang bị quỷ ám, ông sẽ triệu tập nhóm cầu nguyện của mình lại. Đôi khi họ cầu nguyện và kiêng ăn trong một vài ngày cho đến khi Chúa ban sự giúp đỡ và giải thoát cho người bị trói buộc. Có lần, những chiến sĩ cầu nguyện trung thành đã cầu nguyện và kiêng ăn trong 52 buổi tối cho một người phụ nữ bị quỷ ám sống bên cạnh hội trường truyền giảng Phúc âm cho đến khi chiến thắng hoàn toàn được ban cho và người phụ nữ được giải thoát. Một ví dụ đặc biệt sẽ được báo cáo cho thấy cuộc chiến khó khăn để giành lấy linh hồn của con người.
Gần trạm truyền giáo có một gia đình sống, qua nhiều thế hệ, một thành viên luôn bị Fan Yiao chiếm hữu. Nếu người bị chiếm hữu đã bị tiêu diệt, Fan Yiao sẽ chuyển sang một thành viên khác trong gia đình. Gia đình chưa bao giờ ngừng sợ hãi vì rắc rối này. Khi tôi ở trạm truyền giáo này, người cha vừa qua đời trong đau đớn khủng khiếp. Bây giờ con quỷ đã chiếm hữu một người dì già. Có thể dự đoán rằng bà lão sẽ không sống được lâu. Người mẹ và con gái là những người duy nhất còn lại trong gia đình. Họ sợ hãi mong chờ ngày Fan Yiao chiếm hữu họ. Khi đồng nghiệp của tôi và tôi mang Phúc âm đến khu vực này, cả hai người phụ nữ đều chịu ảnh hưởng của Lời Chúa. Họ vui mừng tiếp nhận sứ điệp và học cách tin vào Chúa Jesus. Nhưng họ không hoàn toàn cam kết cuộc đời mình với Đấng Christ. Trong thời gian này, người dì già đã qua đời. Cô con gái đang dự đám tang do thầy cúng thần tượng tổ chức. Trong buổi lễ tang, cô gái đã gặp phải bất hạnh. Fan Yiao đã chiếm hữu cô. Ngay lập tức, người mẹ sợ hãi đưa cô gái đến hội trường Jesus và nhờ những cơ đốc nhân giúp đỡ. Nhóm cầu nguyện đã họp lại vì cô gái trẻ. Vào buổi tối đầu tiên, cô gái bị bệnh đã được giải thoát.
Sau một thời gian, cô gái kết hôn với một chàng trai ngoại đạo. Cô phải thực hiện bước này vì theo phong tục Trung Quốc, cô đã đính hôn nhiều năm. Sau đám cưới, cha mẹ chồng ngoại đạo cấm cô gái trẻ tham dự các buổi họp của Cơ đốc giáo. Họ lấy đi và đốt Kinh thánh và sách thánh ca của cô. Từ thời điểm này trở đi, Fan Yiao lại có quyền lực đối với cô. Những giọng nói lạ phát ra từ cô và cô không thể làm bất kỳ công việc nào. Tình trạng này khiến cha mẹ chồng cô sợ hãi. Họ yêu cầu nhà truyền giáo đến cầu nguyện cùng con dâu. Nhà truyền giáo bắt đầu lên đường cùng nhóm cầu nguyện của mình. Gia đình ngoại đạo hứa sẽ để cô gái trẻ theo đức tin của mình. Họ cũng muốn tặng cô một cuốn Kinh thánh và sách thánh ca mới. Nhóm cầu nguyện rút lui để cầu nguyện. Tối hôm đó, cô gái trẻ lại được tự do. Trầm cảm, sợ hãi và tuyệt vọng đã rời xa cô. Cô có thể đứng dậy và làm việc ngay lập tức. Cô vô cùng vui mừng vì sự giúp đỡ nhanh chóng.
Rồi Chủ Nhật đến. Cô gái trẻ cơ đốc muốn lên đường đến buổi lễ, nhưng cha mẹ chồng ngoại đạo đã hối hận về lời hứa của họ. Một lần nữa họ đốt Kinh Thánh và sách thánh ca và không cho người con dâu đi dự lễ. Cùng ngày hôm đó, Fan Yiao lại lên ngôi. Một lần nữa, cô gái trẻ bị hành hạ vào ban đêm đến nỗi cô không thể làm bất kỳ công việc nào vào ban ngày. Những người ngoại đạo giờ đây nhận ra rằng Chúa Jesus Christ này không thể coi thường. Họ đã trải qua sự thay đổi liên tục về cách ma quỷ sẽ ngay lập tức chiếm lấy nếu cô rời xa Chúa. Trong nỗi sợ hãi, họ đã đưa con dâu của mình đến hội trường Chúa Jesus trên một chiếc xe lăn. Một lần nữa, nhóm cầu nguyện đã được thử thách đó lại tụ họp vì người phụ nữ trẻ. Đã dành ba buổi tối để cầu nguyện và kiêng ăn. Lần này Fan Yiao không nhượng bộ. Nhà truyền giáo cảm thấy rằng đã đến lúc phải hành động. Ông đến gần người phụ nữ bị quỷ ám nhân danh Chúa Jesus và truyền lệnh cho những linh ô uế rời khỏi cô. Bằng tiếng Trung, ông dùng ngôn ngữ mạnh nhất: “Thời gian của ngươi đã hết. Bây giờ ngươi phải ra đi nhân danh Chúa Jesus.” Đột nhiên, giọng một người đàn ông vang lên từ người phụ nữ trẻ: “Ai có thể chịu đựng được lời cầu nguyện này? Thật không thể chịu đựng được.” Từ lúc này, người phụ nữ đã được tự do. Bây giờ cha mẹ chồng cô đã đồng ý rằng cô có thể theo đức tin của mình. Cô không còn bận tâm nữa. Fan Yiao không bao giờ quay trở lại.
Trong hai báo cáo cuối cùng này từ cánh đồng truyền giáo Trung Quốc, một số điều trở nên rõ ràng. Không chỉ có những căn bệnh về tâm trí, tâm hồn và cảm xúc, mà còn có cả ảnh hưởng và sự chiếm hữu của ma quỷ. Các triệu chứng của sự chiếm hữu có cùng đặc điểm ở Trung Quốc cũng như ở Châu Âu và các nơi khác trên thế giới. Các đặc điểm của chúng cũng phù hợp với các triệu chứng của sự chiếm hữu trong Tân Ước. Sự chiếm hữu là một tình trạng vượt qua mọi ranh giới thời gian và quốc gia luôn có cùng một đặc điểm kỳ lạ. Bởi vì điều này liên quan đến một sự kiện trong Kinh thánh, nên bác sĩ tâm thần không phải là một Cơ đốc nhân tin kính sẽ không thể hiểu được điều đó. Những người chỉ có thể suy nghĩ theo ba chiều sẽ không bao giờ hiểu được phạm vi của thần thánh và ma quỷ. Trên hiện tượng chiếm hữu, chiến thắng của Chúa Giê-su trên tất cả các thế lực đen tối là một thực tế rạng rỡ. Người đã trao phó mình cho Chúa Giê-su sẽ được hưởng quyền năng của Ngài. Chính Chúa Giê-su đã phán (Mác 16, 17): “Nhân danh Ta, họ sẽ trừ quỷ.”
- Sự Chiến Thắng Của Đấng Christ
Một nhà truyền giáo làm việc giữa một bộ lạc bị nhiễm ma thuật ở New Guinea. Nhiều pháp sư đã cấm những người đồng hương của mình. Mục vụ Cơ đốc giáo chỉ đạt được ít tiến triển. Trong lời cầu nguyện của mình, nhà truyền giáo thường cảm thấy bị một thế lực khủng khiếp tiếp cận. Cô đã yêu cầu tất cả bạn bè ở nhà trung tín cầu nguyện để lời nguyền đen tối trong vùng cuối cùng cũng bị phá vỡ. Cô không chỉ cảm thấy một trận chiến tâm linh khủng khiếp ở khu vực của mình mà còn trải qua những mối đe dọa kỳ lạ từ động vật hoang dã. Mỗi lần cô muốn đến thăm một ngôi làng nào đó nơi một pháp sư nổi tiếng thực hiện công việc tà ác của mình, những con rắn đã gặp cô trên đường đi khiến cô buộc phải quay trở lại. Cô coi những trải nghiệm về động vật này là ngẫu nhiên cho đến một ngày cô phát hiện ra rằng đó không phải là ngẫu nhiên. Trong một chuyến đi truyền giáo, cô đã đến ngôi làng được đề cập ở trên trên hành trình trở về. Không hề nghi ngờ gì, cô đã vào một trong những túp lều vô danh để mang thông điệp Phúc âm đến với những người ở đó. Trong khi nói chuyện với người phụ nữ, cô cảm thấy một thế lực khủng khiếp đang áp đảo mình. Cô có cảm giác như thể mình sẽ bị giết từ phía sau. Cô quay lại và thấy người đàn ông ngồi ở góc phòng nhìn cô chằm chằm. Cô sợ hãi và bị cứng đơ bởi cái nhìn này và biết ngay lúc đó rằng sức mạnh đen tối phát ra từ người đàn ông này. Cô cố gắng cầu nguyện bên trong nhưng vì cái nhìn đe dọa này, cô không thể làm như vậy. Cuối cùng, cô không biết cách nào khác ngoài việc ra lệnh nhân danh Chúa Jesus. Bây giờ, một điều gì đó vô cùng kỳ lạ đã xảy ra. Người đàn ông nhìn chằm chằm ngã gục và nằm kêu la và rên rỉ trên sàn nhà. Ông ta rón rén đi về phía nhà truyền giáo. Khi cô rời khỏi túp lều, ông ta vẫn rón rén vừa đi theo cô, vừa kêu vừa rên rỉ. Trải nghiệm này khiến chúng ta nhớ đến câu chuyện về vị thần Dagon của người Philistine (1Sa-mu-ên 5, 3), đã nằm trước cổng đền vào buổi sáng. Về sau đó, nhà truyền giáo phát hiện ra rằng cô đã ở trong túp lều của pháp sư trưởng mà không hề hay biết. Người bản xứ cũng biết về khả năng của người đàn ông này khiến động vật hoang dã phải khuất phục trước ông.
- Có Quyền Năng Trong Huyết
Tôi muốn tiến hành một tuần truyền giáo tại một ngôi làng nhỏ. Tôi nghĩ mình đã chuẩn bị kỹ lưỡng trước một nhóm người tụ tập tại ngôi trường. Nhưng tôi ngày càng gặp khó khăn khi nói, vì tôi cảm thấy như thể có ai đó đang bịt miệng tôi. Tôi đi bộ về nhà, người đầy mồ hôi. Có một điều rõ ràng với tôi: Tôi đã gặp phải sự kháng cự ở đây, điều mà tôi, với tư cách là một nhà truyền giáo trẻ, chưa từng trải qua trước đây. Tôi có thể sử dụng những thông điệp đã chuẩn bị của mình ở đây không? Những người này không cần một thứ gì đó hoàn toàn khác sao? Với những suy nghĩ như vậy chiếm giữ tâm trí, tôi trèo lên giường trong một căn phòng áp mái và tắt đèn.
Đó, đó là cái gì vậy? Nó đứng trước mặt tôi như một cái bóng đen lớn và tôi có thể nghe thấy một giọng nói khá rõ ràng với tôi: “Nếu ngươi dám tiếp tục công cuộc truyền giáo này, ta sẽ giết ngươi, vì những linh hồn này thuộc về ta.” Tôi phải nói gì đây? Đối với tôi, chỉ có một câu trả lời: “Nếu Chúa giao phó cho ta, thì không ai có thể cản đường ta.” Nhưng một lần nữa tôi lại nghe thấy giọng nói nham hiểm đó nói: “Được rồi, vậy thì ta sẽ giết ngươi.” Lúc này, tôi bị chuột rút ở tay chân, lan khắp cơ thể và cuối cùng tập trung vào tim. Tôi không thể cử động và trở nên lạnh ngắt. Tôi nằm đó trong hai giờ cho đến khi những cơn chuột rút lại dịu đi. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa rằng kẻ thù muốn giết tôi. Nhưng đồng thời tôi cũng biết rằng hắn không bao giờ có thể làm điều đó trừ khi Chúa cho phép.
Những ngày sau đó rất khó khăn đối với tôi. Tôi sớm phát hiện ra sự phản kháng mạnh mẽ trong làng đến từ đâu. Trong nhiều ngôi nhà, mọi người thực hành bói toán và ma thuật. Một số người bị ám ảnh bởi những thế lực bóng tối mà họ phải chịu đựng. Tôi muốn chuẩn bị những thông điệp mới cho công cuộc truyền giáo, nhưng tôi không thể làm được. Tôi muốn cầu nguyện, nhưng tôi chỉ có thể quỳ xuống và thở dài. Đêm này qua đêm khác, tôi bị những cơn chuột rút giống như đêm đầu tiên. Chúng luôn xảy ra cùng một lúc nhưng không có sự hiện ra. Tôi vô cùng đau khổ và không biết phải làm gì. Tôi có niềm tin mạnh mẽ rằng Chúa đã gọi tôi, nếu không, tôi đã từ bỏ công cuộc truyền giáo này.
Tôi đã tìm đến một số anh em để xin lời khuyên nhưng họ không coi trọng vấn đề này. Cuối cùng, tôi được dẫn đến một người hầu của Chúa lớn tuổi, đáng mến, người có kinh nghiệm trong những việc này. Tôi có thể nói chuyện với ông ấy. Tôi có thể thú nhận với ông ấy rằng tôi, với tư cách là một mục sư được Chúa kêu gọi, không dám đặt tay lên những người yêu cầu điều đó để họ được giải thoát khỏi sự áp chế của họ. Tôi chỉ được kêu gọi để trở thành một nhà thuyết giáo sao? Tôi phải bất lực khi họ tìm đến tôi để được tư vấn khi họ cần nhất sao?
Chính Chúa đã dẫn tôi đến với người tôi tớ lớn tuổi này của Chúa. Người đã giúp tôi một cách quyết đoán. Những gì tôi nhận được từ ông, tôi hẳn đã được dạy ở chủng viện. Nhưng có lẽ khi đó tôi đã không hiểu được. Nhưng giờ đây, khi đứng giữa trận chiến, sự hướng dẫn của người anh lớn tuổi đã giúp ích rất nhiều cho tôi. Có phải đó là điều gì đó mới mẻ mà người ấy nói với tôi về quyền năng của huyết không? Không, tôi biết quyền năng này nhưng tất cả dường như quá mới mẻ và tuyệt vời đối với tôi. Không chỉ những cơn chuột rút đã dừng lại sau khi tôi có ý thức đặt mình dưới sự bảo vệ của huyết Đấng Cứu Rỗi, mà tôi còn có thể thấy quyền năng này đang hoạt động trong cuộc sống của những người khác mà giờ đây tôi có thể tư vấn giúp đỡ. Quyền năng và chiến thắng đã được ban cho chúng ta qua huyết của Chúa Jesus.
“Vì mục đích này, Con Đức Chúa Trời đã hiện ra để hủy phá công việc của ma quỷ” (1 Giăng 3, 8).
Otto Haeni, Nhà truyền giáo, Thụy Sĩ.
- Bị Tháo Bỏ Quyền Lực
Kinh nghiệm này xảy ra vào một ngày xuân năm 1959. Một nha sĩ gọi điện thoại cho chúng tôi và hỏi về loại công việc chúng tôi đang làm. Ông ấy muốn biết mục đích và mục tiêu của mục vụ tư vấn qua điện thoại của chúng tôi và cách chúng tôi xử lý nó. Chúng tôi đã cung cấp cho ông ấy thông tin được yêu cầu. Sau đó, ông ấy tuyên bố rằng ông ấy sẽ đích thân đến văn phòng của chúng tôi. Chúng tôi đã đặt lịch hẹn. Nha sĩ xuất hiện vào giờ đã hẹn và có dấu hiệu cực kỳ lo lắng. Ông ấy không thể ngồi yên trên ghế trong một khoảnh khắc và chúng tôi nhận thấy ông ấy nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Chúng tôi có cảm giác rằng ông ta toát ra một bầu không khí kỳ lạ và bằng cách nào đó đang cố gắng yểm bùa chúng tôi. Việc tư vấn thường được thực hiện bởi hai chúng tôi.
Vì cả hai chúng tôi đều có cùng cảm giác kỳ lạ, chúng tôi đã rút lại một lát để cầu nguyện. Sau đó, một cuộc trò chuyện sôi nổi đã diễn ra. Khi nửa giờ sau, ông ta rời đi, chúng tôi thực sự cảm nhận được ảnh hưởng đen tối của ông ta đối với mình. Chúng tôi tha thiết cầu nguyện để được thanh tẩy qua huyết của Chúa Jesus Christ để chúng tôi không trở thành nạn nhân của thế lực tà ác này.
Sáng hôm sau, người lạ mặt đen tối đó lại gọi điện và hỏi chúng tôi có cảm thấy gì đêm qua không. “Chúng tôi phải cảm thấy thế nào ư?” chúng tôi hỏi lại và ông ta cúp máy mà không nói một lời. Sáng hôm sau, điều tương tự lại lặp lại. Ông ta lại cúp máy và một lần nữa chúng tôi thảo luận về hành vi khó hiểu của người đàn ông này.
Vài ngày trôi qua. Sau đó, ông ấy yêu cầu chúng tôi cầu nguyện cho ông ấy. Sau đó, ông ấy gọi lại cho chúng tôi. Ông ấy nói với chúng tôi rằng ma quỷ đã đưa cho ông ấy những chỉ dẫn cụ thể để chống lại chức vụ điện thoại của chúng tôi. Trong sự đau khổ lớn lao, ông ấy nói với chúng tôi rằng khi ông ấy còn là sinh viên ở Marseille và Paris, anh ấy đã ký kết với ma quỷ bằng chính máu của mình. Bây giờ ông không thể quay lại nữa, bất kể chúng tôi có khuyên đến thế nào. Vài ngày sau ông ta lại gọi điện. Ông ấy thú nhận trong sự tuyệt vọng lớn lao rằng ông ấy đã cố gắng giết chúng tôi và đã sử dụng phương pháp đã được chứng minh của mình cho việc đó. Nhưng nó đã thất bại. Những gì ông ấy đã cố gắng làm với chúng tôi đã liên tục quay trở lại với chính ông ta. Một sức mạnh và quyền năng mạnh mẽ hơn nhiều đã phát ra từ chúng tôi so với sức mạnh mà ông ấy sở hữu. Ông giải thích thêm rằng ông ấy không thể chịu đựng được nữa. Ông ấy không thể chấp nhận Lời Chúa, bởi vì ông ấy thuộc về Satan, kẻ mà ông ấy đã ký kết và kẻ hiện đang đẩy ông ấy đến cái chết.
Ngày hôm sau chúng tôi nhận được một tấm bưu thiếp. Một cây thánh giá được khắc ở góc trên bên phải và bên dưới là những lời của người lạ mặt đen tối: “Khi bạn nhận được tấm bưu thiếp này, tôi sẽ chết.” Ngay sau đó, cảnh sát địa phương đã gọi cho chúng tôi. Họ báo cáo rằng nha sĩ đã tự sát bằng súng. Họ đã tìm thấy xác của ông trong phòng, bên cạnh cuốn sách công thức nấu ăn bằng tiếng Latin của ông, cái gọi là Gương của Solomon. Nếu chúng tôi quan tâm đến nó, họ sẽ chuyển nó cho chúng tôi.
Trong nhiều năm, người đàn ông bất hạnh đã làm khổ dân chúng. Ông không phải là một nha sĩ giỏi, nhưng bất chấp điều đó, ông vẫn hành nghề tốt. Nhưng vì giao ước với quỷ dữ nên đức tin của ông vào Chúa đã dẫn ông đến sự hủy diệt. Kinh nghiệm này chẳng phải cho thấy rõ ràng rằng quyền năng của Đức Chúa Trời, quyền năng của Chúa Giê-su Christ, lớn hơn và mạnh mẽ hơn quyền năng của ma quỷ sao? Và có phải là lời cầu nguyện của các thánh không hề vô ích sao? Chúa Jesus đã chiến thắng địa ngục và ma quỷ, Ngài là Đấng mạnh mẽ hơn. Ngài đã tước đi quyền năng của bóng tối. “Ngài đã truất bỏ các quyền cai trị cùng các thế lực, dùng thập tự giá chiến thắng chúng nó, và nộp ra tỏ tường giữa thiên hạ” (Cô-lô-se 2, 15).
Werner Ambuehl, Nhà truyền giáo, Thụy Sĩ.
- Danh Chúa Giêsu
Vào thời điểm đó không lâu sau Thế chiến thứ hai. May mắn thay, tôi đã trốn thoát khỏi tay người Nga. Sau đó, tôi bắt đầu bị trầm cảm do suy dinh dưỡng. Đói và kiệt sức đã tàn phá tôi. Rối loạn cảm xúc của tôi liên tục tăng lên. Tôi tìm đến bác sĩ thần kinh để được giúp đỡ. Một bác sĩ kê đơn thuốc nhỏ thuốc phiện để tôi bình tĩnh lại. Nhưng một bác sĩ khác đã lấy hết thuốc. Ông đưa tôi đến bệnh viện điều dưỡng của mình và thử liệu pháp tâm lý. Cả hai phương pháp điều trị đều không mấy hiệu quả. Thuốc phiện khiến tôi tệ hơn và liệu pháp tâm lý chỉ có hiệu quả khi tôi ở cùng bác sĩ.
Tôi đã cố gắng quay lại nghề cũ của mình với tư cách là một mục sư Tin Lành. Với khối lượng công việc ngày càng tăng, bệnh tật của tôi cũng tăng theo. Đó là những ngày rất đen tối. Vợ tôi lại gọi bác sĩ để tham khảo ý kiến. Một ngày nọ, khi tôi đang ở giai đoạn tồi tệ nhất, Chúa đã can thiệp. Một nhà truyền giáo đã đến thăm chúng tôi, nhưng tôi đã ngay lập tức tránh đường. Trong tình trạng của mình, tôi không muốn nói chuyện với bất kỳ ai.
Nhà truyền giáo đã nói chuyện với vợ tôi. Ông ấy nói với bà ấy rằng ông ấy có ấn tượng rằng ông ấy nên cầu nguyện cho tôi và đặt tay lên tôi theo Gia-cơ 5, 14. Lúc đầu, tôi kiên quyết từ chối. Việc đặt tay theo Kinh thánh hoàn toàn xa lạ với tôi trong thực tế mặc dù tôi là một mục sư. Trong chủng viện, tôi hầu như chưa bao giờ nghe bất cứ điều gì về các phong tục Kinh thánh này. Do đó, tôi không đồng ý với mong muốn của nhà truyền giáo.
Nhưng vợ tôi đã thắng. Cô ấy đã nói với tôi từ Kinh thánh về việc đặt tay. Tôi đã đầu hàng. Người anh em cầu nguyện với tôi dưới sự đặt tay. Không có gì xảy ra. Ngày hôm sau ông ấy lại đến. Khi nghe nói về sự vô ích của những nỗ lực của mình, ông đã hỏi thăm về những điều tôi đã bị trói buộc trong cuộc sống. Tôi thấy nóng bừng. Là một mục sư Tin Lành, mà tôi lại bị trói buộc gì sao?
Người anh em kể cho tôi nghe về nhiều thầy phù thủy sống ở khu vực nơi tôi sinh ra và nhiều tội lỗi của nghề phù thủy. Ông ấy cũng nói với tôi rằng những tội lỗi mà tổ tiên tôi đã phạm phải về vấn đề này vẫn có thể khiến tôi phải chịu đựng. Tôi dần dần nhận ra điều đó. Cha tôi đã bị bệnh khi còn trẻ. Sự giúp đỡ y tế đã vô ích. Do đó, mẹ ông đã đưa ông đến một thầy phù thủy. Phương pháp điều trị bằng phép thuật đã thành công ngay lập tức.
Nhà truyền giáo bây giờ chỉ vào Điều răn thứ nhất. Nó nói ở đó: Đức Chúa Trời “chẳng kể kẻ có tội là vô tội, và nhân tội tổ phụ phạt đến con cháu trải ba bốn đời” (Xuất Ê-díp-tô Ký 34, 7). Bây giờ ông hỏi tôi liệu tôi có nhận ra cha tôi được chữa bệnh bằng ma thuật là một tội phù thủy không. Tôi thừa nhận điều đó. Chúng tôi quỳ xuống. Mặc dù chức danh của mục sư của tôi, điều này cũng lạ đối với tôi. Tôi đã ăn năn về tội lỗi của tổ tiên tôi và về tội lỗi của chính tôi. Đó là sự ăn năn để sống. Trong đức tin, tôi có thể nhận được sự tha thứ tội lỗi của mình và dâng cuộc đời mình cho Chúa Jesus.
Như đã làm trong những ngày trước, nhà truyền giáo lại đặt tay lên tôi và cầu nguyện cùng tôi. Đột nhiên mọi nỗi buồn chán biến mất. Tôi tràn ngập một sự bình yên và nhẹ nhõm không thể diễn tả được. Tôi chưa bao giờ trải qua cảm giác này. Tôi gần như đang trôi nổi, tôi đã trở nên nhẹ nhõm. Niềm vui tràn ngập này kéo dài trong nhiều tuần và nhiều tháng.
Lần đầu tiên tôi hiểu được lời trong Phi-líp 3, 20: “Nhưng chúng ta là công dân trên trời; ấy là từ nơi đó mà chúng ta trông đợi Cứu Chúa mình là Đức Chúa Jêsus Christ“. Tôi cảm thấy như chân mình không chạm đất chút nào. Mọi thứ, cuộc sống của tôi, những ngày tháng u ám của tôi đã được biến đổi bởi tình yêu của Đấng Christ. Toàn bộ Kinh thánh, cũng như chức vụ của tôi hoàn toàn khác trông thấy.
Sau một thời gian, khi tôi đến gặp bác sĩ lần nữa, ông ấy đã khám tôi và đưa ra kết quả sau: tiến triển đáng kinh ngạc về cả thể chất lẫn thần kinh. Các chứng trầm cảm không bao giờ quay trở lại. Phép lạ này đã xảy ra với tôi sau khi tôi đã là một mục sư trong nhiều năm. Và đó là một nhà thuyết giáo khiêm nhường đã là sứ giả của Chúa Jesus đến với tôi.
Những gì đã xảy đến với tôi bởi ân điển của Chúa cũng được cảm nhận trong nhà thờ của tôi. Hội chúng của tôi ngồi dậy và lắng nghe cách rao giảng mới của tôi. Trọng tâm chính của tôi bây giờ là tôn cao Danh Chúa Jesus trước mặt mọi người. Lời không trở về hư không. Mọi người đã được cải đạo. Ở những khu vực xung quanh, nơi tôi được kêu gọi để phục vụ, thỉnh thoảng cũng có những cuộc phục hưng nhỏ. Trước đây, không thể tổ chức các buổi lễ và buổi cầu nguyện vào các ngày trong tuần, nhưng bây giờ chúng đã xuất hiện mà không cần bất kỳ nỗ lực đặc biệt nào. Đấng đã bắt đầu ngọn lửa vẫn đang tiếp tục duy trì ngọn lửa.
Danh Chúa Jesus đã trở thành sức mạnh to lớn cho chức vụ của tôi. Danh này có nghĩa là sức mạnh đối với tôi, sức mạnh cứu rỗi đối với nhiều người. Nó đã trở thành mong muốn cháy bỏng của tôi để nói cho tất cả những ai lắng nghe sứ điệp của tôi, rằng Danh Chúa Jesus nắm giữ điều gì. “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Công vụ 4, 12).
Rev. Berthold Schoof, Germany.
Những cuốn sách khác của tác giả
Chăm sóc mục vụ và huyền bí
Chủ nghĩa tâm linh
Bói toán và hậu quả
Gánh nặng và sự giải thoát
Việc theo Chúa Jesus
Ma thuật Mê tín Tình yêu
Chúa Giêsu ngày nay
Chúa Giêsu trong cuộc sống hằng ngày
Trên đường với Chúa Giêsu
Dưới sự lãnh đạo của Chúa Giêsu
Về sự chiến thắng với Chúa Giêsu
Nhà xuất bản truyền giáo
Berghausen Bd. (Đức)