Ê-sai 38 – Vua Ê-xê-chia Được Cứu Sống

A.Lòng thương xót của Đức Chúa Trời đối với Ê-xê-chia.

1.(1) Lời loan báo của Ê-sai cho Ê-xê-chia.

1 Trong lúc đó, Ê-xê-chia lâm bịnh hầu chết; đấng tiên tri Ê-sai, con trai A-mốt, đến chầu vua, và tâu rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hãy sắp đặt nhà ngươi vì ngươi hầu chết, không sống được nữa.

a.Trong lúc đó / Vào những ngày đó: Điều này xảy ra vào thời điểm quân Assyria xâm lược Judah, vì Jerusalem vẫn chưa được giải thoát khỏi mối đe dọa của quân Assyria (Ê-sai 38: 6). Các sự kiện của chương này cũng được ghi lại trong 2 Các Vua 20: 1-11.

i.“Các nhà giải thích đồng ý rằng các sự kiện được mô tả trong Isaiah 38-39 xảy ra trước cuộc xâm lược năm 701 TCN…. Nhiều người cho rằng các sự kiện này xảy ra vào năm 703 TCN, nhưng bằng chứng cho thấy rõ ràng hơn là vào khoảng năm 712 TCN” (Wolf)

b.Nhà vua bị bệnh và gần chết: Chúng ta không được thuật lại cách Ê-xê-chia bị bệnh làm sao. Có thể là do điều gì đó hiển nhiên với tất cả mọi người, hoặc có thể là do điều gì đó chỉ có Chúa mới biết. Tuy nhiên, Ê-xê-chia bị bệnh, chắc chắn là do Chúa cho phép.

c.Hãy sắp xếp nhà cửa, vì ngươi sẽ chết chứ không sống được: Chúa rất nhân từ với Ê-xê-chia, bảo ông rằng cái chết của ông đã gần kề. Không phải ai cũng có thời gian để sắp xếp nhà cửa.

i.Khi so sánh 2 Các Vua 18: 2 với 2 Các Vua 20: 6, chúng ta biết rằng Ê-xê-chia đã 39 tuổi khi ông biết mình sắp qua đời.

2Các Vua 18: 2 Người được hai mươi lăm tuổi khi lên làm vua, và cai trị hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là A-bi, con gái của Xa-cha-ri.

2Các Vua 20: 6 Ta sẽ thêm tuổi ngươi mười lăm năm, ta sẽ giải cứu ngươi và thành nầy khỏi tay vua A-si-ri. Vì cớ ta và Đa-vít, kẻ tôi tớ ta, ta sẽ binh vực thành nầy.

Tổng số năm cai trị vua Ê-xê-chi-a là 29 năm. Trong đó Chúa gia thêm cho ông 15 năm, mới là 29 năm

Vậy ông bị bệnh vào năm thứ 14 ông làm vua, là lúc 39 tuổi.

2.(2-3) Lời cầu nguyện của Ê-xê-chia.

a.2 Ê-xê-chia bèn xây mặt vào tường, cầu nguyện Đức Giê-hô-va rằng: Điều này cho thấy Ê-xê-chia tha thiết cầu nguyện như thế nào. Ông hướng lời cầu nguyện của mình một cách riêng tư đến Chúa, chứ không phải đến bất kỳ người đàn ông nào.

b.3 Hỡi Đức Giê-hô-va, xin nhớ rằng tôi đã lấy lòng chân thật trọn lành đi trước mặt Chúa, và đã làm điều lành trước mặt Ngài!: Đối với tai chúng ta, lời cầu nguyện của Ê-xê-chia có thể nghe gần như không thánh thiện. Trong đó, ông tập trung vào sự tự biện minh và công trạng của riêng mình. Chẳng khác gì Ê-xê-chia đã cầu nguyện, “Lạy CHÚA, con đã là một đứa con ngoan và Ngài không công bằng với con. Hãy nhớ rằng con đã là một đứa con ngoan và xin Ngài giải cứu con.”

i.Nhưng theo Giao ước Cũ, đây là một nguyên tắc hợp lệ để tiếp cận Chúa. Những đoạn như Lê-vi Ký 26 và Phục truyền Luật lệ Ký 28 cho thấy rằng theo Giao ước Cũ, phước lành và sự nguyền rủa được Chúa gửi đến dựa trên việc làm là sự vâng lời hay không vâng lời. Theo nguyên tắc đó, Đa-vít có thể viết trong Thi thiên 15: 1-2 1 Hỡi Đức Giê-hô-va, ai sẽ ngụ trong đền tạm Ngài? Ai sẽ ở trên núi thánh Ngài? 2 Ấy là kẻ đi theo sự ngay thẳng, làm điều công bình, Và nói chân thật trong lòng mình.

ii.Nhưng theo Giao ước mới, chúng ta được ban phước trên nguyên tắc đức tin nơi Chúa Jesus (Ga-la-ti 3: 13-14 13 Đấng Christ đã chuộc chúng ta khỏi sự rủa sả của luật pháp, bởi Ngài đã nên sự rủa sả vì chúng ta, – vì có lời chép: Đáng rủa thay là kẻ bị treo trên cây gỗ,PhuDnl 21:23

 14 hầu cho phước lành ban cho Áp-ra-ham nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà được rải khắp trên dân ngoại, lại hầu cho chúng ta cậy đức tin mà nhận lãnh Đức Thánh Linh đã hứa cho.). Nguyên tắc cầu nguyện của Ê-xê-chia không phù hợp với một Cơ đốc nhân ngày nay. Chúng ta cầu nguyện nhân danh Chúa Jesus (Giăng 16: 23-24 23 Trong ngày đó, các ngươi không còn hỏi ta về điều chi nữa. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, điều chi các ngươi sẽ cầu xin nơi Cha, thì Ngài sẽ nhân danh ta mà ban cho các ngươi. 24 Đến bây giờ, các ngươi chưa từng nhân danh ta mà cầu xin điều chi hết. Hãy cầu xin đi, các ngươi sẽ được, hầu cho sự vui mừng các ngươi được trọn vẹn.), không phải nhân danh con người chúng ta hoặc những gì chúng ta đã làm.

iii.”Chúng ta gặp những lời cầu xin tương tự hết lần này đến lần khác trong những lời cầu nguyện của con cái Chúa thời xưa. Các Thi Thiên có rất nhiều lời cầu xin như vậy. Nhưng chúng ta không tìm thấy chúng trong Tân Ước. Những lời cầu xin của Hội Thánh dựa vào sự công bình của Chúa Giê-xu” (Bultema)

c.3bĐoạn, Ê-xê-chia khóc dầm dề: Tại sao Ê-xê-chia lại suy sụp đến thế trước viễn cảnh cái chết? Nhiều Cơ Đốc nhân ngày nay sẽ nói, “Xin hãy đưa con về nhà, CHÚA ƠI!” Nhưng Ê-xê-chia sống dưới Giao Ước Cũ, và vào thời điểm đó không có sự đảm bảo chắc chắn về vinh quang trong sự sống đời sau. Thay vào đó, Chúa Jesus đã mang sự sống và sự bất tử ra ánh sáng thông qua phúc âm (2 Ti-mô-thê 1: 10 BHĐ nhưng nay được bày tỏ qua sự xuất hiện của Ðức Chúa Jesus Christ, Ðấng Giải Cứu của chúng ta, Ðấng đã vô hiệu hóa quyền lực của tử thần và dùng Tin Mừng để đem sự sống và sự bất tử ra ánh sáng). Ngoài ra, dưới Giao Ước Cũ, Ê-xê-chia sẽ coi đây là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời rất không hài lòng với ông.

3.(4-5) Ê-sai đem lời đáp của Đức Chúa Trời cho lời cầu nguyện của Ê-xê-chia.

a.4 Bấy giờ, có lời Đức Giê-hô-va phán cho Ê-sai rằng: 5 Hãy trở lại nói cùng Ê-xê-chia rằng: Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Đa-vít, tổ ngươi, phán như vầy: Ta đã nghe lời cầu nguyện của ngươi, đã thấy nước mắt ngươi. Nầy, ta sẽ thêm cho ngươi mười lăm tuổi: Đáp lại lời cầu nguyện của Ê-xê-chia, Đức Chúa Trời đã ban cho Ê-xê-chia thêm mười lăm năm nữa.

i.Bởi vì Ê-xê-chia đã bình phục, vậy thì lời của Chúa trong Ê-sai 38, câu 1: “vì ngươi hầu chết, không sống được nữa” có phải là sai không? Không hề; đầu tiên, Ê-xê-chia thực sự đã chết, chỉ không phải ngay sau khi Chúa tuyên bố. Thứ hai, khi Chúa tuyên bố sự phán xét, thì hầu như luôn luôn là lời mời gọi ăn năn và nhận được lòng thương xót.

b.5Ta đã nghe lời cầu nguyện của ngươi: Lời cầu nguyện của Ê-xê-chia rất quan trọng. Theo mọi dấu hiệu, nếu Ê-xê-chia không cầu nguyện tha thiết, thì cuộc đời của ông sẽ không được kéo dài. Cầu nguyện rất quan trọng.

i.Trên thực tế, Chúa đã ban cho Ê-xê-chia hai món quà. Thứ nhất, Ngài ban cho ông món quà là một cuộc sống kéo dài. Thứ hai, Ngài ban cho ông món quà là biết rằng ông chỉ còn mười lăm năm nữa. Nếu ông khôn ngoan, điều này vẫn sẽ mang lại cho Vua Ê-xê-chia động lực để bước đi đúng đắn với Chúa và sắp xếp nhà cửa của mình theo trật tự.

4.(6) Lời hứa giải thoát khỏi mối đe dọa của người Assyria.

6 Ta sẽ giải cứu ngươi cùng thành nầy khỏi tay vua A-si-ri, và ta sẽ binh vực thành nầy.

a.Ta sẽ giải cứu ngươi và thành này khỏi tay vua A-si-ri: Lời hứa này phù hợp với những lời tiên tri giải cứu trước đây của Chúa, và cho biết chương này được viết trước khi Chúa tiêu diệt quân đội A-si-ri (Ê-sai 37: 36-37 36 Bấy giờ, một thiên sứ của Đức Giê-hô-va vào trại quân của người A-si-ri, và giết mười tám vạn năm ngàn người. Sáng hôm sau, người ta dậy sớm, thấy rặt những thây chết. 37 San-chê-ríp, vua A-si-ri, bèn đi, trở về ở tại Ni-ni-ve).

b.Ta sẽ giải cứu ngươi…và Ta sẽ bảo vệ thành phố này: Sự kết nối của hai lời hứa cho thấy lời hứa này sẽ xác nhận lời hứa kia. Khi Ê-xê-chia hồi phục sức khỏe, ông có thể biết rằng Chúa cũng sẽ giải cứu ông khỏi người Assyria.

5.(7-8) Dấu hiệu xác nhận lời hứa.

7 Nầy là dấu Đức Giê-hô-va ban cho ngươi để nghiệm biết Đức Giê-hô-va sẽ làm hoàn thành lời mình đã phán: 8 trên bàn trắc ảnh A-cha, ta sẽ làm cho bóng mặt trời đương đi và đã đi quá, lui lại mười độ. Vậy thì trên bàn trắc ảnh, bóng mặt trời đã lui lại mười độ mà nó đã đi quá rồi.

a.Đây là dấu hiệu… cho Khi Ê-xê-chia thấy CHÚA sẽ thực hiện điều Ngài đã phán: Đức Chúa Trời đã tỏ lòng thương xót nhiều hơn nữa đối với Ê-xê-chia. Đức Chúa Trời không có nghĩa vụ phải ban dấu hiệu này. Trên thực tế, Đức Chúa Trời đã có lý khi nói rằng, “Này Ê-xê-chia, Ta đã phán và ngươi tin. Làm sao ngươi dám không tin lời Ta là sự thật?” Nhưng trong tình yêu thương thực sự, Đức Chúa Trời đã ban cho Ê-xê-chia nhiều hơn những gì ông cần hoặc xứng đáng.

i.Đức Chúa Trời cũng thương xót chúng ta như vậy. Chỉ cần Đức Chúa Trời nói với chúng ta rằng: “Ta yêu con” là đủ. Nhưng Đức Chúa Trời đã làm nhiều hơn thế để chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta (Giăng 3: 16 Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời., Rô-ma 5: 8 Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.).

b.8 trên bàn trắc ảnh A-cha, ta sẽ làm cho bóng mặt trời đương đi và đã đi quá, lui lại mười độ. Vậy thì trên bàn trắc ảnh, bóng mặt trời đã lui lại mười độ mà nó đã đi quá rồi: Chúa hứa sẽ làm một điều hoàn toàn kỳ diệu cho dấu hiệu xác nhận. Và điều đó đã xảy ra đúng như Chúa hứa: Vì vậy, mặt trời đã lùi lại mười độ trên đồng hồ mà nó đã đi xuống.

i.Đây là một dấu hiệu tuyệt vời thích hợp cho Ê-xê-chia. Bằng cách để bóng của đồng hồ mặt trời di chuyển ngược lại, nó cho thêm thời gian trong một ngày – giống như Chúa đã cho Ê-xê-chia thêm thời gian.

ii.Phép lạ này được thực hiện như thế nào? Chúng ta không biết. Chúa có thể chỉ đơn giản là “làm mặt trời quay trở lại”. Hoặc, Ngài có thể đã tạo ra sự xuất hiện kỳ diệu của thời gian quay trở lại trên đồng hồ mặt trời của A-cha. Thực ra, cách Chúa làm điều đó không quan trọng; Ngài có những nguồn lực và cách thức kỳ diệu mà chúng ta không biết gì cả.

B.Lời tuyên bố của vua Ê-xê-chia về việc ông được chữa lành.

1.(9-14) Lời than thở của Ê-xê-chia.

a.câu 9-13 9 Nầy là lời chép của Ê-xê-chia, vua Giu-đa, khi đã lâm bịnh và được lành bịnh: 10 Tôi từng nói: Vậy thì, đương khi giữa trưa của đời tôi, tôi hầu vào cửa Âm phủ (Sheol), còn mấy năm thừa bị cất mất! 11 Tôi từng nói: Tôi sẽ chẳng thấy Đức Giê-hô-va nữa, là Đức Giê-hô-va ở trên đất người sống. Tôi chẳng còn thấy loài người ở cùng dân cư thế gian. 12 Nhà của tôi bị triệt đi, dời xa khỏi tôi như cái trại của người chăn chiên. Tôi cuốn đời tôi như thợ dệt cuốn vải nó; Chúa sẽ cắt tôi khỏi khung cửi; từ sáng đến tối, Chúa sẽ dứt mạng sống tôi! 13 Tôi làm thinh cho đến sáng mai: như Ngài đã xé cả xương tôi như sư tử vậy. Từ sáng đến tối, Chúa sẽ dứt mạng sống tôi!: Từ Sheol trong tiếng Hê-bê-rơ ám chỉ “ngôi mộ” hoặc “nơi của người chết”. Ở đây, Ê-xê-chia than thở về tin tức về cái chết sắp xảy ra của mình.

b.Tôi sẽ không thấy YAH, Chúa ở đất người sống: Nỗi đau của Ê-xê-chia khi cái chết đang đến gần càng tăng lên khi ông tin rằng khi ở trong mồ, ông sẽ không còn thấy Chúa nữa.

i.Một lần nữa, suy nghĩ của Ê-xê-chia dựa trên sự hiểu biết mơ hồ về thế giới bên kia, trước khi sự sống và sự bất tử được mang đến sự sống thông qua phúc âm của Chúa Jesus Christ (2 Timothy 1: 10). Mặc dù thỉnh thoảng có những tia hy vọng thoáng qua về thế giới bên kia (như trong Job 19: 25-27), nhưng phần lớn không có sự hiểu biết rõ ràng về bản chất của cuộc sống sau khi chết (Psalm 6: 5, Psalm 88: 3-5, 11).

Gióp 19: 25-27 25 Còn tôi, tôi biết rằng Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống, Đến lúc cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất. 26 Sau khi da tôi, tức xác thịt nầy, đã bị tan nát, Bấy giờ ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Đức Chúa Trời; 27 Chánh tôi sẽ thấy Ngài, Mắt tôi sẽ nhìn xem Ngài, chớ chẳng phải kẻ khác, Lòng tôi hao mòn trong mình tôi.

Thi thiên 6 5 Vì trong sự chết chẳng còn nhớ đến Chúa nữa; Nơi Âm phủ ai sẽ cảm tạ Chúa?

Thi thiên 88 3-5 3 Vì linh hồn tôi đầy dẫy sự hoạn nạn, Mạng sống tôi hầu gần âm phủ. 4 Tôi bị kể vào số những kẻ đi xuống huyệt; Tôi khác nào một người chẳng có ai giúp đỡ, 5 Bị bỏ giữa kẻ chết, Giống như những kẻ bị giết nằm trong mồ mả, Mà Chúa không còn nhớ đến, Là kẻ bị truất khỏi tay Chúa… 11 Sự nhân từ Chúa há sẽ được truyền ra trong mồ mả sao? Hoặc sự thành tín Chúa được giảng trong vực sâu ư?

ii.Điều này giải thích tại sao Ê-xê-chia không chào đón cái chết như một con đường chắc chắn dẫn đến sự hiện diện của CHÚA. Đối với những vị thánh Cựu Ước như Ê-xê-chia và David, ngôi mộ (Sheol) là một nơi không chắc chắn. Họ biết CHÚA ở đó (Thi thiên 139: 8 Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó, Ví tôi nằm dưới Âm phủ, kìa, Chúa cũng có ở đó.), nhưng họ không biết nhiều hơn thế. Đối với những vị thánh Cựu Ước này, việc đi đến thế giới bên kia là trao đổi sự chắc chắn của thế giới này để lấy sự không chắc chắn của thế giới bên kia.

c.14b Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi đương cơn sầu khổ, xin Ngài bảo lãnh tôi!: Vì Ê-xê-chia sống trước khi công trình của Chúa Jesus hoàn thành, nên ông sống dưới sự ràng buộc của nỗi sợ hãi cái chết (Hê-bơ-rơ 2: 14-15 14 Vậy thì, vì con cái có phần về huyết và thịt, nên chính Đức Chúa Jêsus cũng có phần vào đó, hầu cho Ngài bởi sự chết mình mà phá diệt kẻ cầm quyền sự chết, là ma quỉ, 15 lại cho giải thoát mọi người vì sợ sự chết, bị cầm trong vòng tôi mọi trọn đời.). Thật khác biệt biết bao đối với người tin vào Chúa Jesus Christ, những người mà sự chết không có chiến thắng hay nọc độc (1 Cô-rinh-tô 15: 53-55 53 Vả, thể hay hư nát nầy phải mặc lấy sự không hay hư nát, và thể hay chết nầy phải mặc lấy sự không hay chết. 54 Khi nào thể hay hư nát nầy mặc lấy sự không hay hư nát, thể hay chết nầy mặc lấy sự không hay chết, thì được ứng nghiệm lời Kinh thánh rằng: Sự chết đã bị nuốt mất trong sự thắng. 55 Hỡi sự chết, sự thắng của mầy ở đâu? Hỡi sự chết, cái nọc của mầy ở đâu).

[Ê-sai 25:8 Ngài đã nuốt sự chết đến đời đời. Chúa Giê-hô-va sẽ lau nước mắt khỏi mọi mặt, và trừ bỏ sự xấu hổ của dân Ngài khỏi cả thế gian; vì Đức Giê-hô-va đã phán vậy.]

[Ô-sê 13:14 Ta sẽ cứu chúng nó khỏi quyền lực của Âm phủ, và chuộc chúng nó ra khỏi sự chết. Hỡi sự chết, nào tai vạ mầy ở đâu? Hỡi Âm phủ, nào sự hủy hoại mầy ở đâu? Ôi! Sự ăn năn sẽ bị giấu khỏi mắt ta.]

i.“Ê-xê-chia đã được so sánh với Paul, người mong muốn ra đi và ở với Chúa Kitô, nhưng sự so sánh này là không công bằng, vì Ê-xê-chia vẫn sống dưới bóng tối của Thời kỳ Cũ. Israel biết về một cuộc sống bất tử nhưng không có hy vọng vinh quang như Hội Thánh hiện có.” (Bultema)

d.14 Tôi rầm rì như chim hạc chim yến; gù như chim bồ câu; mắt tôi nhìn trên cao nên nỗi mỏi. Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi đương cơn sầu khổ, xin Ngài bảo lãnh tôi!: “Những tiếng kêu khác nhau của các loài chim Palestine thể hiện bản chất khác nhau của nhiều lời kêu cầu của Ê-xê-chia với Chúa, khi thì yên lặng, khi thì the thé, khi thì buồn thảm.” (Grogan)

2.Chúng ta có thể hiểu rõ hơn về thế giới bên kia so với Vua Ê-xê-chia.

a.Kinh thánh sử dụng nhiều từ khác nhau trong Cựu Ước và Tân Ước để mô tả thế giới bên kia và nơi con người sẽ đến khi họ chết.

  • Sheol là một từ tiếng Hê-bê-rơ có ý tưởng về “nơi của người chết”. Nó không có sự ám chỉ trực tiếp đến sự dày vò hay hạnh phúc vĩnh cửu. Ý tưởng về Sheol thường được diễn đạt chính xác là “mồ mả”.
  • Hades là một từ tiếng Hy Lạp dùng để mô tả “thế giới bên kia”. Trong Kinh thánh, nó thường có cùng ý tưởng với Sheol.
  • Khải Huyền 9: 1 nói về vực sâu không đáy ; nơi này được gọi là vực thẳm là nhà tù dành cho một số ác quỷ (Lu-ca 8: 31 Chúng nó bèn cầu xin Đức Chúa Jêsus đừng khiến mình xuống vực sâu. ; 2 Phi-e-rơ 2: 4 Vả, nếu Đức Chúa Trời chẳng tiếc các thiên sứ đã phạm tội, nhưng quăng vào trong vực sâu, tại đó họ bị trói buộc bằng xiềng nơi tối tăm để chờ sự phán xét; ; Giu-đe 1: 6 còn các thiên sứ không giữ thứ bậc và bỏ chỗ riêng mình, thì Ngài đã dùng dây xích họ trong nơi tối tăm đời đời, cầm giữ lại để chờ sự phán xét ngày lớn). Hay nói rộng hơn, nó được coi là một phần của cõi chết (Rô-ma 10: 7 hay là: Ai sẽ xuống vực sâu? Ấy là để đem Đấng Christ từ trong kẻ chết lại lên. sử dụng theo nghĩa của Âm phủ).
  • Gehenna là một từ tiếng Hy Lạp mượn từ tiếng Hebrew. Chúa Giê-xu nói về địa ngục (gehenna) trong Mark 9: 43-44 43 Nếu tay ngươi làm cho ngươi phạm tội, hãy chặt nó đi; thà rằng một tay mà vào sự sống, còn hơn đủ hai tay mà sa xuống địa ngục, trong lửa chẳng hề tắt. [Có mấy bản thêm hai câu 44 và 46 rằng: Đó là nơi sâu bọ của chúng nó chẳng hề chết, và là nơi lửa chẳng hề tắt]. Có mấy bản thêm hai câu 44 và 46 rằng: Đó là nơi sâu bọ của chúng nó chẳng hề chết, và là nơi lửa chẳng hề tắt

Địa ngục là bản dịch tiếng Hy Lạp của từ tiếng Hebrew “Thung lũng Hinnom”, một nơi bên ngoài tường thành Jerusalem bị ô uế bởi sự thờ Molech và hiến tế người (2 Sử ký 28: 1-3 1 A-cha được hai mươi tuổi khi người lên ngôi làm vua; người cai trị mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem, chẳng làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va y như Đa-vít, tổ phụ người, đã làm; 2 nhưng người đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên, lại cũng làm những hình tượng đúc cho thần Ba-anh, 3 đốt hương trong trũng con trai Hi-nôm, và thiêu con cái mình nơi lửa, theo sự gớm ghiếc của các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.; Giê-rê-mi 32: 35 Chúng nó đã xây các nơi cao của Ba-anh trong nơi trũng con trai Hi-nôm, khiến con trai con gái mình qua lửa, dâng cho Mô-lóc, là điều ta không truyền dạy; ta chẳng hề nghĩ đến rằng chúng nó có thể phạm một sự gớm ghiếc dường ấy mà làm cho Giu-đa phạm tội.). Đây cũng là một bãi rác nơi rác và đồ thừa bị đốt. Những ngọn lửa âm ỉ và những con giun đang thối rữa của Thung lũng Hinnom đã biến nơi đây thành một bức tranh sinh động và hiệu quả về số phận của những kẻ bị nguyền rủa. Nơi này cũng được gọi là “hồ lửa” trong Khải huyền 20: 13-15 13 Biển đem trả những người chết mình chứa; Sự chết và Âm phủ cũng đem trả những người chết mình có. Mỗi người trong bọn đó bị xử đoán tùy công việc mình làm. 14 Đoạn, Sự chết và Âm phủ bị quăng xuống hồ lửa. Hồ lửa là sự chết thứ hai. 15 Kẻ nào không được biên vào sách sự sống đều bị ném xuống hồ lửa., được chuẩn bị cho ma quỷ và các thiên thần của nó (Ma-thi-ơ 25: 41 Kế đó, Ngài sẽ phán cùng những người ở bên tả rằng: Hỡi kẻ bị rủa, hãy lui ra khỏi ta; đi vào lửa đời đời đã sắm sẵn cho ma quỉ và những quỉ sứ nó.).

b.Nơi được gọi là Sheol Hades không phải là nơi chúng ta thường nghĩ đến là “địa ngục/hồ lửa”. Trước khi công việc hoàn thành của Chúa Jesus, đó là nơi người chết chờ đợi sự phán xét hoặc sự biện minh cuối cùng (như được Chúa Jesus minh họa trong câu chuyện về người giàu có và La-xa-rơ trong Luca 16: 19-31). Chúa Jesus đã ở Hades sau khi chết trên thập tự giá, nhưng không (và không thể) ở lại đó (Công vụ 2: 25-32). Có vẻ như Chúa Jesus đã rao giảng ở Hades (1 Phi-e-rơ 3: 18-19 18 Vả, Đấng Christ cũng vì tội lỗi chịu chết một lần, là Đấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng ta đến cùng Đức Chúa Trời; về phần xác thịt thì Ngài đã chịu chết, nhưng về phần linh hồn thì được sống. 19 Ấy bởi đồng một linh hồn đó, Ngài đi giảng cho các linh hồn bị tù) và có một ý nghĩa là Chúa Jesus đã giải thoát những người bị giam cầm ở Hades (Ê-phê-sô 4: 8-9 8 Vậy nên có chép rằng: Ngài đã lên nơi cao, dẫn muôn vàn kẻ phu tù, Và ban các ơn cho loài người. 9 Vả, những chữ “Ngài đã lên” có nghĩa gì, há chẳng phải là Ngài cũng đã xuống trong các miền thấp ở dưới đất sao? và Ê-sai 61: 1 Thần của Chúa Giê-hô-va ngự trên ta; vì Đức Giê-hô-va đã xức dầu cho ta, đặng giảng tin lành cho kẻ khiêm nhường. Ngài đã sai ta đến đặng rịt những kẻ vỡ lòng, đặng rao cho kẻ phu tù được tự do, kẻ bị cầm tù được ra khỏi ngục). Chúa Jesus không chuộc tội ở Hades; giá đã được trả trên thập tự giá (Giăng 19: 30 Khi Đức Chúa Jêsus chịu lấy giấm ấy rồi, bèn phán rằng: Mọi việc đã được trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn.) khi Chúa Jesus chịu đau khổ trong thân thể vật chất của Ngài (Cô-lô-se 1: 19-22 19 Vì chưng Đức Chúa Trời đã vui lòng khiến mọi sự đầy dẫy của mình chứa trong Ngài, 20 và bởi huyết Ngài trên thập tự giá, thì đã làm nên hòa bình, khiến muôn vật dưới đất trên trời đều nhờ Ngài mà hòa thuận cùng chính mình Đức Chúa Trời. 21 Còn anh em ngày trước vốn xa cách Đức Chúa Trời, và là thù nghịch cùng Ngài bởi ý tưởng và việc ác mình, 22 nhưng bây giờ Đức Chúa Trời đã nhờ sự chết của Con Ngài chịu lấy trong thân thể của xác thịt mà khiến anh em hòa thuận, đặng làm cho anh em đứng trước mặt Ngài cách thánh sạch không vết, không chỗ trách được;). Chúa Jesus đã đến Hades như một người chiến thắng chứ không phải là một nạn nhân. Công việc và sự rao giảng của Chúa Jesus đã mang đến sự cứu rỗi cho những người tin Chúa đã chết, những người đã tin và chờ đợi trong Hades (Hê-bơ- rơ 11: 39-40 39 Hết thảy những người đó dầu nhân đức tin đã được chứng tốt, song chưa hề nhận lãnh điều đã được hứa cho mình. 40 Vì Đức Chúa Trời có sắm sẵn điều tốt hơn cho chúng ta, hầu cho ngoài chúng ta ra họ không đạt đến sự trọn vẹn được.), và công việc của Ngài đã niêm phong sự lên án của những kẻ gian ác và những kẻ không tin. Vì công việc của Chúa Jesus trên thập tự giá đã hoàn tất, nên không còn “sự chờ đợi” nào cho những người tin Chúa đã chết, những người sẽ đi thẳng lên thiên đàng (2 Cô-rinh-tô 5: 6-8 6 Vậy, chúng ta hằng đầy lòng tin cậy, và biết rằng khi chúng ta đang ở trong thân thể nầy thì cách xa Chúa 7 -vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy. – 8 Vậy tôi nói, chúng ta đầy lòng tin cậy, muốn lìa bỏ thân thể nầy đặng ở cùng Chúa thì hơn, Phi-líp 1: 21-23 21 Vì Đấng Christ là sự sống của tôi, và sự chết là điều ích lợi cho tôi vậy. 22 Ví thử tôi cứ sống trong xác thịt, là ích lợi cho công khó tôi, thì tôi chẳng biết nên lựa điều chi. 23 Tôi bị ép giữa hai bề muốn đi ở với Đấng Christ, là điều rất tốt hơn;). Theo nghĩa đó, Chúa Jesus đã “đóng cửa” phần Hades được gọi là “Lòng Áp-ra-ham”; nhưng phần Hades dành riêng cho sự hành hạ sẽ bị chiếm giữ cho đến ngày phán xét cuối cùng, khi những người ở đó sẽ bị đưa đến nơi mà chúng ta thường nghĩ là “Địa ngục”. Gehenna là nơi mà chúng ta thường nghĩ là “Địa ngục”, Hồ Lửa (Khải Huyền 19: 20 Nhưng con thú bị bắt và tiên tri giả là kẻ đã làm phép lạ trước mặt con thú, nhờ đó lừa dối những người đã nhận dấu hiệu con thú cùng thờ lạy hình tượng nó, cũng bị bắt với nó nữa; cả hai đều đương sống bị quăng xuống hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng, 20: 10-15 10 Còn ma quỉ là đứa đã dỗ dành chúng, thì bị quăng xuống hồ lửa và diêm, trong đó đã có con thú và tiên tri giả rồi. Chúng nó sẽ phải chịu khổ cả ngày lẫn đêm cho đến đời đời. 11 Bấy giờ tôi thấy một tòa lớn và trắng cùng Đấng đương ngồi ở trên; trước mặt Ngài trời đất đều trốn hết, chẳng còn thấy chỗ nào cho nó nữa. 12 Tôi thấy những kẻ chết, cả lớn và nhỏ, đứng trước tòa, và các sách thì mở ra. Cũng có mở một quyển sách khác nữa, là sách sự sống; những kẻ chết bị xử đoán tùy công việc mình làm, cứ như lời đã biên trong những sách ấy. 13 Biển đem trả những người chết mình chứa; Sự chết và Âm phủ cũng đem trả những người chết mình có. Mỗi người trong bọn đó bị xử đoán tùy công việc mình làm. 14 Đoạn, Sự chết và Âm phủ bị quăng xuống hồ lửa. Hồ lửa là sự chết thứ hai. 15 Kẻ nào không được biên vào sách sự sống đều bị ném xuống hồ lửa.

và 21: 6-8 6 Ngài lại phán cùng tôi rằng: Xong rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, nghĩa là đầu tiên và cuối cùng. Kẻ nào khát, ta sẽ lấy nước suối sự sống mà ban cho nhưng không. 7 Kẻ nào thắng sẽ được những sự ấy làm cơ nghiệp, ta sẽ làm Đức Chúa Trời người và người sẽ làm con ta. 8 Còn những kẻ hèn nhát, kẻ chẳng tin, kẻ đáng gớm ghét, kẻ giết người, kẻ dâm loạn, kẻ phù phép, kẻ thờ thần tượng, và phàm kẻ nào nói dối, phần của chúng nó ở trong hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng: Đó là sự chết thứ hai.). Trên thực tế, Gehenna hay địa ngục có nhiều tên gọi hoặc danh hiệu trong Kinh thánh, bao gồm hồ lửa (Khải Huyền 19: 20), lửa đời đời (Ma-thi-ơ 25: 41 Kế đó, Ngài sẽ phán cùng những người ở bên tả rằng: Hỡi kẻ bị rủa, hãy lui ra khỏi ta; đi vào lửa đời đời đã sắm sẵn cho ma quỉ và những quỉ sứ nó), hình phạt đời đời (Ma-thi -ơ 25: 46 Rồi những kẻ nầy sẽ vào hình phạt đời đời, còn những người công bình sẽ vào sự sống đời đời.), và bóng tối bên ngoài (Ma-thi-ơ 8: 12 Nhưng các con bổn quốc sẽ bị liệng ra chốn tối tăm ở ngoài, tại đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng).

c.Cựu Ước có ít sự mặc khải rõ ràng về thế giới bên kia; những tuyên bố chắc chắn như Gióp 19: 25-26 25 Còn tôi, tôi biết rằng Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống, Đến lúc cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất. 26 Sau khi da tôi, tức xác thịt nầy, đã bị tan nát, Bấy giờ ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Đức Chúa Trời;

bị phản bác bởi những đoạn không chắc chắn như Truyền Đạo 3: 19-20 19 Tại nơi ấy nhỏ và lớn đều ở cùng nhau, Và kẻ tôi mọi được phóng khỏi ách chủ mình. 20 Cớ sao ban ánh sáng cho kẻ hoạn nạn, Và sanh mạng cho kẻ có lòng đầy đắng cay? và Thi Thiên 6: 4-5 4 Lạy Đức Giê-hô-va, xin hãy trở lại, giải cứu linh hồn tôi; Hãy cứu tôi vì lòng nhân từ Ngài. 5 Vì trong sự chết chẳng còn nhớ đến Chúa nữa;
Nơi Âm phủ ai sẽ cảm tạ Chúa?
. Tuy nhiên, Tân Ước đưa ra nhiều sự mặc khải cụ thể hơn về thế giới bên kia; đây là những điều hiện đã được mặc khải qua sự xuất hiện của Đấng Cứu Rỗi của chúng ta là Chúa Giê-xu Christ, Đấng đã hủy diệt sự chết và đem sự sống và sự bất tử ra ánh sáng qua phúc âm. (2 Ti-mô-thê 1: 10 BHĐ nhưng nay được bày tỏ qua sự xuất hiện của Ðức Chúa Jesus Christ, Ðấng Giải Cứu của chúng ta, Ðấng đã vô hiệu hóa quyền lực của tử thần và dùng Tin Mừng để đem sự sống và sự bất tử ra ánh sáng). Điều đáng chú ý là hầu hết những người dạy giáo lý sai lầm về thế giới bên kia (như “linh hồn ngủ” hoặc thuyết hủy diệt) đều dựa lập luận của họ vào những đoạn “không chắc chắn” này từ Cựu Ước, thay vì những đoạn rõ ràng hơn nhiều trong Tân Ước. Khi làm như vậy, họ đã bác bỏ nguyên tắc rõ ràng của 2 Ti-mô-thê 1: 10BHĐ nhưng nay được bày tỏ qua sự xuất hiện của Ðức Chúa Jesus Christ, Ðấng Giải Cứu của chúng ta, Ðấng đã vô hiệu hóa quyền lực của tử thần và dùng Tin Mừng để đem sự sống và sự bất tử ra ánh sáng.

3.(15-20) Ê-xê-chia ngợi khen Chúa vì đã cứu mạng ông.

15 Tôi còn nói gì? Ngài đã phán cùng tôi thì Ngài cũng đã làm thành việc nầy. Trọn đời tôi sẽ ăn ở cách khiêm nhường vì cớ trong lòng cay đắng. 16 Hỡi Chúa, người ta được sống là nhờ đó; thần linh tôi được sống cũng nhờ đó! Xin Chúa chữa lành tôi, khiến tôi được sống.

a.Tôi phải nói gì đây? Ngài vừa phán với tôi, vừa tự Ngài làm điều đó: Khi Đức Chúa Trời đáp lời cầu nguyện của ông, tất cả những gì Ê-xê-chia có thể làm là ngợi khen Đức Chúa Trời. Ông biết rằng đó là tất cả công việc của CHÚA, cả trong lời nói (nói với tôi) và hành động (làm điều đó). Vì vậy, Ê-xê-chia không nói nên lời (Tôi phải nói gì đây?).

b.câu 15b Trọn đời tôi sẽ ăn ở cách khiêm nhường vì cớ trong lòng cay đắng. | engl: Tôi sẽ bước đi cẩn thận trong suốt những năm tháng của mình: Đây là một lời hứa tốt lành mà Ê-xê-chia đã đưa ra, và thường được thốt ra trên môi của người mà Chúa đã tha thứ. Nhưng cuối cùng, đó chỉ là một lời hứa tốt lành nếu Ê-xê-chia thực hiện tốt.

i.Ê-xê-chia đã làm gì với 15 năm thêm vào này? Một điều ông đã làm là sinh ra một người con trai sẽ kế vị ông trên ngai vàng của Judah. Về vị vua tiếp theo của Judah, Manasseh, con trai của Ê-xê-chia, có chép rằng ông đã 12 tuổi khi lên ngôi vua (2 Kings 21: 1 Ma-na-se được mười hai tuổi khi người lên làm vua; người cai trị năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Hép-si-ba). Điều này có nghĩa là ông hẳn đã được sinh ra trong 15 năm cuối đời của Ê-xê-chia. Đáng buồn thay, việc sinh ra Manasseh không phải là một thành tựu xứng đáng. Có chép về ông, 2 Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và theo sự thờ phượng gớm ghiếc của các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên (2Các Vua 21: 2). Trên thực tế, Đức Chúa Trời đặc biệt nhắm vào Judah để phán xét vì những tội lỗi khủng khiếp của Manasseh (2 Kings 21: 10-15 10 Đức Giê-hô-va bèn cậy các tiên tri, là tôi tớ Ngài, mà phán rằng: 11 Vì Ma-na-se, vua Giu-đa, đã phạm những sự gớm ghiếc ấy, và có làm ác hơn mọi điều dân A-mô-rít đã làm trước người, cùng quyến dụ Giu-đa phạm tội với hình tượng nó, — 12 vì cớ đó, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Kìa, ta sẽ giáng trên Giê-ru-sa-lem và trên Giu-đa những tai họa cả thể, đến đỗi phàm ai nghe nói đến phải lùng bùng lỗ tai. 13 Ta sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem dây đo Sa-ma-ri và cân nhà của A-háp. Ta sẽ xóa sạch Giê-ru-sa-lem như người ta chùi rửa cái dĩa, rồi úp nó xuống sau khi rửa xong. 14 Ta sẽ từ bỏ phần còn sót lại về sản nghiệp ta, phó chúng nó vào tay thù nghịch chúng nó; chúng nó sẽ trở thành hóa tài và miếng mồi của họ; 15 vì chúng nó làm những điều ác trước mặt ta, chọc giận ta, từ ngày tổ phụ chúng nó ra khỏi Ê-díp-tô cho đến ngày nay.).

ii.Trong điều này, chúng ta có thể thấy rằng CHÚA đã có một kế hoạch tốt hơn Ê-xê-chia khi gọi ông về nhà vào thời điểm trước đó. Chúa biết rằng nếu Ê-xê-chia sống, ông sẽ sinh ra người kế vị độc ác này. Đôi khi cách tốt nhất là để số phận của chúng ta cho Chúa quyết định và cả những gì dù trông có vẻ tốt đẹp đi nữa cũng nên phó thác cho sự quyết định khôn ngoan của Ngài.

c.17 Nầy, sự rất cay đắng của tôi đã trở nên sự bình an! Chúa đã yêu thương linh hồn tôi, đem nó ra khỏi hầm hư nát; vì Chúa đã ném mọi tội lỗi tôi ra sau lưng Ngài: Ê-xê-chia đáng được ngưỡng mộ vì sự tự nhận thức chính xác và sự trung thực của ông. Ông thừa nhận rằng không phải vì vinh quang hay danh dự của Chúa, hay thậm chí vì vinh quang hay danh dự của vương quốc mà ông đã lo lắng về cái chết sắp xảy ra của mình và rằng ông muốn cứu mạng sống mình. Đó là vì sự bình an của riêng ông.

d.18-20 18 Nơi Âm phủ chẳng ngợi khen Ngài được, và sự chết chẳng tôn vinh Ngài được; những kẻ đã xuống mồ rồi chẳng còn trông cậy sự thành thật của Ngài nữa. 19 Duy kẻ sống, kẻ sống mới hay tôn vinh Ngài, như tôi làm ngày nay; kẻ làm cha sẽ cho con cái mình biết sự thành thật của Ngài: Một lần nữa, đoạn văn này phản ánh sự hiểu biết không chắc chắn về “thế giới bên kia” trước khi công trình hoàn thành của Chúa Jesus Christ. Ê-xê-chia biết rằng ông có thể ca ngợi Chúa khi ông bước đi trên trái đất này, nhưng ông không chắc chắn lắm về thế giới bên kia.

e.20 Đức Giê-hô-va là Đấng cứu tôi! Trọn đời chúng tôi sẽ đàn và hát trong nhà Đức Giê-hô-va!: Ê-xê-chia cho thấy phản ứng hợp lý trước sự giải cứu vĩ đại của Chúa – ông Tôn vinh Đức Chúa Trời.

4.(21-22) Chúa đã chữa lành cho vua Ê-xê-chia như thế nào.

a.21 Vả, Ê-sai có nói rằng: Hãy lấy một cái bánh trái vả đắp trên mụt ung độc, vua sẽ được lành: Rõ ràng, ở đây Chúa đã sử dụng phương pháp điều trị y khoa này – ít nhất, Ngài đã sử dụng nó như một dấu hiệu – để mang lại sự chữa lành cho Ê-xê-chia. Chúa có thể, và thường xuyên, mang lại sự chữa lành thông qua các phương pháp điều trị y khoa, và ngoài một sự chỉ dẫn khác thường từ Chúa, Đừng bao giờ nhân danh “đức tin” mà gạt bỏ phương pháp điều trị y khoa.

i.“Bệnh nhân phải cầu nguyện, nhưng đồng thời phải sử dụng phương tiện; tin cậy Chúa, nhưng đừng thử thách Ngài.” (Trapp)

b.22 Ê-xê-chia đáp rằng: Có dấu nào cho ta biết rằng ta còn được lên nhà Đức Giê-hô-va nữa chăng? Ê-xê-chia muốn một dấu hiệu, nhưng tại sao lại là dấu hiệu cho phép ông lên nhà của CHÚA ? Bởi vì ông không thể và không muốn lên nhà của CHÚA cho đến khi ông được chữa lành, vì vậy hai điều này có liên quan với nhau.

nguồn