Ráp-sa-kê Là Ai?

Thuật ngữ Ráp-sa-kê có nghĩa là “thủ lĩnh của các hoàng tử” và ám chỉ một chỉ huy chiến trường được San-chê-ríp, vua Assyria, phái đi làm sứ giả đến với vua Ê-xê-chia của Giu-đa (Ê-sai 36). Không rõ liệu Ráp-sa-kê có phải là tên riêng của người đàn ông này hay chỉ là chức danh của ông, chỉ chức vụ của ông. Bản dịch 2020 dịch Ráp-sa-kê là “quan tổng binh” BHĐ là tướng lãnh, các bản tiếng anh “tham mưu trưởng Assyria” và “phát ngôn viên hoàng gia”. Ráp-sa-kê cũng có thể ám chỉ đến quan dâng rượu hoặc tể tướng của triều đình Assyria.

Quân đội Assyria của San-chê-ríp đã đánh bại vương quốc Israel ở phía bắc. Trong IICác Vua 18:12 nói rằng “điều này xảy ra vì họ [Israel] đã không vâng lời Chúa là Đức Chúa Trời của họ, nhưng đã vi phạm giao ước của Ngài—tất cả những gì Moses, tôi tớ của Chúa, đã truyền lệnh. Họ không nghe lệnh cũng không thực hiện chúng”. San-chê-ríp cũng đã chiếm được tất cả các thành trì kiên cố ở Giu-đa và cũng chuẩn bị chiếm Jerusalem. Ông ta đã phái Ráp-sa-kê cùng một đội quân lớn đến thách thức Ê-xê-chia. Sử dụng tiếng Hebrew, Ráp-sa-kê nói, “4 Ráp-sa-kê nói với ba người rằng: Hãy tâu cùng vua Ê-xê-chia rằng: Đấng đại vương, tức là vua A-si-ri, phán như vầy: Sự trông cậy mà ngươi nương dựa là gì? 5 Ta nói rằng: mưu và sức ngươi dùng mà giao chiến chỉ là lời vô ích mà thôi! Vậy ngươi cậy ai mà dám làm phản ta?” (Ê-sai 36:4–5). Ráp-sa-kê đã sử dụng ngôn ngữ bản địa của người Giu-đa để những người lính Giu-đa trên tường thành có thể nghe thấy. Có thể ông ta hy vọng những lời nói của mình sẽ khiến họ sợ hãi và gây áp lực buộc Ê-xê-chia phải đầu hàng.

 

Trong Ê-sai 36: 11 “Ê-li-a-kim, cùng Sép-na và Giô-a, bảo Ráp-sa-kê rằng: Xin nói với tôi tớ ông bằng tiếng A-ram, vì chúng tôi hiểu tiếng ấy. Song đừng lấy tiếng Giu-đa nói cùng chúng tôi, cho dân nầy đương ở trên tường thành nó nghe“. Nhưng Ráp-sa-kê chỉ la lớn hơn bằng tiếng Hê-bê-rơ, hy vọng sẽ làm lung lay đức tin của họ và khiến dân thường Giu-đa chống lại vua của họ (Ê-sai 36: 13 Đoạn, Ráp-sa-kê đứng dậy, dùng tiếng Giu-đa mà nói to lên rằng: Hãy nghe lời phán của đại vương, là vua A-si-ri).

Thông điệp của Ráp-sa-kê gửi đến người dân Jerusalem đầy dẫy những lời dối trá, khoe khoang và phạm thượng:

  • ông đặt câu hỏi về mục tiêu mà họ tin tưởng
  • ông chế giễu chiến lược của Ê-xê-chia là yếu đuối và không hiệu quả
  • ông hạ thấp bất kỳ sự giúp đỡ nào mà họ có thể nhận được từ Ai Cập
  • ông nói với họ rằng Chúa đã quay lưng lại với họ
  • ông tuyên bố Chúa đã sai ông đến để phá hủy vùng đất Giu-đa
  • ông thô lỗ nhắc nhở họ về nỗi kinh hoàng khi bị bao vây
  • ông cáo buộc Ê-xê-chia lừa dối người dân
  • ông chế giễu ý niệm tin tưởng vào Đức Chúa Trời.
  • ông hứa tặng đất đai và hòa bình cho bất kỳ ai đầu hàng
  • ông nhắc nhở họ rằng chưa có vị thần nào của quốc gia có thể giải cứu họ khỏi Assyria
  • ông coi Chúa ngang hàng với các vị thần bất lực của các quốc gia khác

 

Khi Ê-xê-chia nghe thấy những lời đe dọa, vua đã cử các sứ giả của mình đến tham khảo ý kiến ​​của nhà tiên tri của Chúa, Ê-sai (Ê-sai 37:1–2). Ê-sai nói với họ, “Chớ sợ về những lời ngươi đã nghe, là lời của tôi tớ vua A-si-ri dùng mà nói phạm ta. 7 Nầy ta đặt thần linh trong nó, rồi nó sẽ nghe tin mà trở về xứ mình; tại đó, ta sẽ làm cho nó ngã dưới gươm” (câu 6–7). Ê-xê-chia cũng đem sứ điệp mà ông nhận được từ Ráp-sa-kê đến đền thờ, nơi ông đặt nó trước mặt Chúa và cầu xin sự giúp đỡ.

 

Chúa đã bảo vệ Giê-ru-sa-lem, đúng như Ngài đã hứa (Ê-sai 37:36–38 36 Bấy giờ, một thiên sứ của Đức Giê-hô-va vào trại quân của người A-si-ri, và giết mười tám vạn năm ngàn người. Sáng hôm sau, người ta dậy sớm, thấy rặt những thây chết. 37 San-chê-ríp, vua A-si-ri, bèn đi, trở về ở tại Ni-ni-ve. 38 Một ngày kia người đương quì lạy trong đền Nít-róc, thần của mình, thì con trai người là A-tra-mê-léc và Sa-rết-se lấy gươm giết người. Đoạn, hai người đó trốn trong xứ A-ra-rát. Con trai người là Ê-sạt-ha-đôn trị vì thay người.). Bất chấp những lời chế giễu và những nỗ lực thao túng của Ráp-sa-kê nhằm đánh bại dân Chúa, quân đội A-si-ri đã bị tiêu diệt, và mục đích của Chúa đã thắng thế. Nó sẽ luôn thắng thế (Ê-sai 46:9–11 9 Hãy nhớ lại những sự ngày xưa; vì ta là Đức Chúa Trời, và chẳng có Chúa nào khác; ta là Đức Chúa Trời, chẳng có ai giống như ta. 10 Ta đã rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên, và đã nói từ thuở xưa những sự chưa làm nên. Ta phán rằng: Mưu của ta sẽ lập, và ta sẽ làm ra mọi sự ta đẹp ý. 11 Ta gọi chim ó đến từ phương đông, và gọi người làm mưu ta đến từ xứ xa. Điều ta đã rao ra, ta sẽ làm hoàn thành, điều ta đã định, ta cũng sẽ làm.).

Ngày nay, nhiều người cố gắng làm nản lòng dân Chúa, thông qua sự chế giễu, phạm thượng và dối trá. Giống như Ráp-sa-kê, họ tự cho mình là bất khả chiến bại và thậm chí có thể tuyên bố rằng Chúa ở bên họ. Những người tin Chúa phải chạy đến Lời Chúa, tìm kiếm sự khôn ngoan và cầu nguyện. Sau đó, họ phải tin vào lời hứa của Chúa.

Ma-la-chi 3:17–18 tiết lộ phản ứng của Chúa khi một Ráp-sa-kê thời hiện đại thách thức chúng ta: “‘17 Đức Giê-hô-va vạn quân phán: Những kẻ ấy sẽ thuộc về ta, làm cơ nghiệp riêng của ta trong ngày ta làm; và ta sẽ tiếc chúng nó như một người tiếc con trai mình hầu việc mình. 18 Bấy giờ các ngươi sẽ trở lại và sẽ phân biệt giữa kẻ công bình và kẻ gian ác, giữa kẻ hầu việc Đức Chúa Trời và kẻ không hầu việc Ngài.’”

nguồn