A. Luật lệ chung cho các thầy tế lễ.
1. (1-4) Các thầy tế lễ bị cấm chạm vào xác chết.
a. 1a Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng: Hãy nói cùng những thầy tế lễ, là các con trai A-rôn, mà rằng: Các thầy tế lễ xuất thân từ một gia đình đặc biệt (riêng biệt) của chi tộc Levi – gia đình của Aaron, anh trai của Moses. Các thầy tế lễ có trách nhiệm đặc biệt là đại diện cho Chúa trước mặt dân chúng và đại diện cho dân chúng trước mặt Chúa. Do đó, họ có một lời kêu gọi đặc biệt đến sự thánh thiện và sự thanh sạch theo nghi lễ.
i. Mục đích của những luật này là để minh họa sự trong sạch và tách biệt khỏi tội lỗi, là đặc điểm của thầy tế lễ. Một xác chết là hình ảnh của hậu quả tội lỗi trên thế giới này, đặc biệt là theo cách cơ thể nhanh chóng thối rữa.
ii. “Bất kỳ sự tiếp xúc nào với xác chết đều được cho là khiến một người trở nên ô uế về mặt nghi lễ. Xem Dân số ký 19. ” (Peter-Contesse)
b. 1b Thầy tế lễ chớ vì một người chết trong dân sự mà làm cho mình ra ô uế: Điều này không chỉ liên quan đến việc chạm vào xác chết mà thậm chí là ở cùng phòng với xác chết hoặc đi qua mộ hoặc chạm vào mộ. Việc đến gần người chết là làm ô uế thầy tế lễ, khiến thầy tế lễ trở nên ô uế về mặt nghi lễ.
i. Do đó, trái ngược với hầu hết các hệ thống tôn giáo ngoại giáo của những dân láng giềng của Israel, các thầy tế lễ không chuẩn bị xác chết để chôn cất. Sự thánh khiết mang lại sự sống ; Chúa không muốn các thầy tế lễ thánh của Ngài quá gắn bó với cái chết. Chúa không muốn các thầy tế lễ và sự thờ phượng của Ngài bị chi phối bởi cái chết, mà bởi sự sống. Chúa cũng không muốn các thầy tế lễ của Ngài ở bất cứ nơi nào gần các tục thờ sự chết của những người ngoại giáo.
ii. “Bằng cách chạm vào thi thể người chết, hoặc ở cùng nhà với người chết, hoặc giúp đỡ tang lễ của người chết, hoặc ăn tiệc tang lễ.” (Poole)
c.2-4 2 trừ ra vì bà con thân thích mình, vì mẹ, cha, con trai, con gái, anh em mình, 3 và vì chị em ruột mình còn đồng trinh, chưa chồng, thì người được vì chị em đó làm cho mình ra ô uế. 4 Người là đầu trưởng trong dân sự mình, chớ làm mình ra tục mà bị ô uế: Một thầy tế lễ có thể tham gia vào nghi lễ chôn cất cho một thành viên trong gia đình trực hệ, nhưng không được tham gia vào bất kỳ ai khác. Câu 3 không đề cập đến người vợ, nhưng nhiều người nghĩ rằng điều đó được ngụ ý. Thầy tế lễ Ê-xê-chi-ên đã than khóc cái chết của vợ mình, mặc dù ông đã làm như vậy trong im lặng (Ê-xê-chi-ên 24:16-17 16 Hỡi con người, nầy, thình lình ta sẽ cất khỏi ngươi sự con mắt ngươi ưa thích; nhưng ngươi sẽ chẳng than thở, chẳng khóc lóc, và nước mắt ngươi chẳng chảy ra. 17 Hãy than thầm: chớ phát tang cho những kẻ chết; khá vấn cái khăn trên đầu ngươi; mang giày ở chân ngươi. Chớ che môi lại, và đừng ăn bánh của kẻ khác.).
2. (5) Các thầy tế lễ không được bắt chước các tập tục tang chế của người ngoại đạo.
a. 5a Các thầy tế lễ chớ nên làm sói trên đầu: Luật tương tự đã được ban cho Israel nói chung trong Lê-vi Ký 19:27-28. Ở đó, lệnh truyền được kết nối với các nghi lễ ngoại giáo về chôn cất và tang lễ. Ý tưởng ở đây cũng giống vậy.
Lê-vi Ký 19:27-28: 27 Chớ cắt mé tóc mình cho tròn, và chớ nên phá khóe râu mình. 28 Chớ vì kẻ chết mà cắt thịt mình, chớ xâm vẽ trên mình: Ta là Đức Giê-hô-va.
i. “Điều này không liên quan gì đến chứng hói đầu tự nhiên (như trong chương 13) mà liên quan đến việc cố ý cạo một phần đầu để tạo thành một chỗ hói. Điều này được một số người thực hiện để thương tiếc người chết.” (Peter-Contesse)
ii. “Đây dường như là một phong tục chung giữa những người ngoại đạo. Trong sách Baruch, chương 6:31, các thầy tế lễ Babylon được miêu tả đang ngồi trong đền thờ của họ, quần áo rách rưới, đầu và râu cạo trọc, và không có gì trên đầu.” (Clarke)
b. 5bchớ cạo mép râu mình, đừng cắt thịt mình: Các tiên tri của Baal tự cắt mình để gây ấn tượng với vị thần giả của họ (1 Các Vua 18:28). Các thầy tế lễ phục vụ Yahweh, Đức Chúa Trời của Israel, bị cấm làm điều này trong các lễ tang hoặc bất kỳ bối cảnh nào khác.
3. (6-9) Nghi lễ hôn nhân của các thầy tế lễ.
a. 6a Họ sẽ biệt riêng ra thánh cho Đức Chúa Trời mình, và chớ làm ô danh Ngài: Điều này tóm tắt lý do cho các lệnh truyền cho các thầy tế lễ trong chương này. Đức Chúa Trời muốn họ phải thánh khiết và thể hiện sự thánh khiết đó với dân sự. Làm ô uế là trái ngược với việc thánh khiết.
i. và chớ làm ô danh Ngài, BHĐ không được xúc phạm đến danh Ngài: “Người ta cũng có thể nói ‘làm mất danh dự’, hoặc ‘mang lại sự ô nhục’, hoặc ‘mang lại sự xấu hổ cho Danh Chúa’” (Peter-Contesse)
b. 6bvì họ dâng cho Đức Giê-hô-va các của lễ dùng lửa thiêu; tức là vật thực của Đức Chúa Trời mình: họ phải nên thánh: Sự thánh khiết này quan trọng đối với các thầy tế lễ vì họ thực hiện các lễ vật thiêu trên bàn thờ (bằng lửa). Họ cũng hằng ngày mang bánh mới vào đền tạm, bánh tượng trưng cho sự tương giao của Y-sơ-ra-ên với Đức Chúa Trời (bánh của Đức Chúa Trời họ). Chỉ có các thầy tế lễ mới có thể làm những điều này, và đặc ân đặc biệt của họ có nghĩa là họ cũng có những trách nhiệm đặc biệt.
i. Vai trò của thầy tế lễ trong việc dâng bánh của Đức Chúa Trời của họ quan trọng đến nỗi cụm từ này được lặp lại một lần nữa trong câu 8. Điều này nhấn mạnh mối liên hệ giữa sự thánh khiết và mối tương giao với Đức Chúa Trời (bởi vì bánh của Đức Chúa Trời của họ là hình ảnh của mối tương giao, như thể Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài cùng chia sẻ bánh). Mối liên hệ giữa sự thánh khiết và mối tương giao cũng được nêu rõ trong Tân Ước, trong những đoạn như 1 Giăng 1:5-6 5 Nầy là lời truyền giảng mà chúng tôi đã nghe nơi Ngài và truyền lại cho anh em rằng Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài chẳng có sự tối tăm đâu. 6 Ví bằng chúng ta nói mình được giao thông với Ngài, mà còn đi trong sự tối tăm, ấy là chúng ta nói dối và không làm theo lẽ thật.
ii. Thực ra, thuật ngữ bánh của Đức Chúa Trời của họ bao gồm bánh dâng, nhưng cũng bao gồm tất cả các phần thức ăn hiến tế thuộc về các thầy tế lễ. “Bánh dâng; hay đúng hơn, tất cả các lễ vật khác ngoài lễ vật thiêu; được gọi là bánh…bởi vì bánh thường được dùng cho mọi thức ăn, như trong Lê-vi Ký 21:17, 21. ” (Poole)
c. 7 Thầy tế lễ chớ nên cưới một người kỵ nữ hay là kẻ dâm ô; cũng chẳng nên cưới người bị chồng để, vì thầy tế lễ đã biệt riêng ra thánh cho Đức Chúa Trời mình. 8 Vậy ngươi hãy kể thầy tế lễ như thánh, vì người dâng vật thực của Đức Chúa Trời người; người sẽ là thánh cho ngươi, vì ta, Đức Giê-hô-va, là thánh, Đấng làm cho các ngươi nên thánh vậy: Các thầy tế lễ chỉ được lấy những cô gái đồng trinh làm vợ. Điều này có nghĩa là họ không được cưới một người phụ nữ là gái điếm, một người phụ nữ bị ô uế theo một cách nào đó, hoặc một người phụ nữ đã ly dị. Không rõ liệu việc kết hôn với một góa phụ có được phép hay không.
i. Đây là một cách khác để minh họa cho sự cam kết và sự trong sạch mà các thầy tế lễ phải có. Một thầy tế lễ – theo Giao ước Cũ hoặc Giao ước Mới – chỉ được đặt tình cảm của mình vào những gì trong sạch.
ii. “Việc đề cập đến gái điếm nhằm mục đích nhắc nhở người Israel rằng mại dâm theo nghi lễ (bợm vĩ gian, temple whore, tiếng đức: tempelhure) của người Ca-na-an không hề có chỗ đứng trong đời sống của cộng đồng giao ước, vì hành vi như vậy sẽ làm ô uế danh thánh của Chúa.” (Harrison)
iii. Có thể từ kẻ dâm ô (BHĐ phụ nữ lăng loàn) trong câu 7 chỉ là một lời giải thích thêm cho từ kỵ nữ (BHĐ gái mại dâm) – một người bị ô uế qua nghi lễ mại dâm liên quan đến các thần tượng ngoại giáo. Hoặc, người bị ô uế “có thể chỉ là người đã bị dụ dỗ hoặc bị xâm hại và do đó đã mất đi sự trinh trắng của mình.” (Peter-Contesse)
iv. Ly hôn: Việc các thầy tế lễ bị cấm kết hôn với những phụ nữ đã ly hôn có nghĩa là điều đó được phép đối với người Israel không phải là thầy tế lễ.
d. 9 Nếu con gái thầy tế lễ đi dâm ô, tự làm nên kỵ nữ, ấy là làm ô danh cho cha nó, nó phải bị thiêu lửa: Sự thánh thiện mà một thầy tế lễ mong đợi cũng mở rộng đến gia đình, gia đình trực hệ của ông ta. Do đó, con gái của một thầy tế lễ có trách nhiệm đặc biệt là phải trong sạch. Sẽ không được dung thứ nếu cô ấy là một gái điếm, và điều này có lẽ đặc biệt mang ý nghĩa mại dâm liên quan đến các nghi lễ và thần linh của người ngoại giáo.
i. Điều này bị cấm theo luật chung của Israel, nhưng có đề cập đặc biệt đến điều này ở đây để nhấn mạnh sự thánh thiện của vị thầy tế lễ và gia đình của ông. “Một vị thầy tế lễ cho phép gái mại dâm cư trú dưới mái nhà của mình sẽ không đủ tư cách để đưa ra quyết định thay mặt cho cộng đồng giao ước.” (Rooker)
ii. Ý tưởng rằng một người lãnh đạo trong dân sự của Đức Chúa Trời phải lãnh đạo gia đình mình tốt được nhắc lại trong Tân Ước (1 Ti-mô-thê 3:4-5 người giám mục 4 phải khéo cai trị nhà riêng mình, giữ con cái mình cho vâng phục và ngay thật trọn vẹn; 5 vì nếu có ai không biết cai trị nhà riêng mình, thì làm sao cai trị được Hội thánh của Đức Chúa Trời?, Tít 1: 6 Mỗi người trong vòng trưởng lão đó phải cho không chỗ trách được, chỉ chồng của một vợ; con cái phải tin Chúa, không được bị cáo là buông tuồng hoặc ngỗ nghịch.).
B. Những yêu cầu về chức tế lễ thượng phẩm và việc lựa chọn các thầy tế lễ.
1. (10-15) Trách nhiệm của thầy tế lễ thượng phẩm.
a. 10a Thầy tế lễ được quyền trọng hơn các anh em mình, – đã được rưới dầu xức trên đầu mình, được biệt riêng ra thánh, để mặc mình bằng bộ áo thánh,: Thầy tế lễ thượng phẩm có trách nhiệm đặc biệt là tôn vinh và minh họa sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Ông được xức dầu đặc biệt và có bộ áo thánh để mặc (Xuất Ê-díp-tô Ký 28:1-30). Các luật áp dụng cho các thầy tế lễ khác cũng áp dụng cho ông, nhưng được nêu ở đây để nhấn mạnh hơn.
i. Khi chúng ta đọc về thầy tế lễ thượng phẩm và sự xức dầu đặc biệtcùng y phục của ngài, chúng ta xem xét Chúa Jesus. Chúa Jesus là một thầy tế lễ thượng phẩm, nhưng không theo ban Aaron. Chúa Jesus là một thầy tế lễ thượng phẩm theo ban Mên-chi-xê-đéc (Hê-bơ-rơ 5:1-11).
ii. “Đây là nơi đầu tiên [trong Kinh thánh] mà danh hiệu này được giới thiệu; danh hiệu này rất nhấn mạnh, haccohen haggadol, vị thầy tế lễ đó, vị vĩ đại.” (Clarke)
b. 10b-12 10bCHẲNG NÊN ĐỂ ĐẦU TRẦN VÀ XÉ ÁO MÌNH. 11 Người chớ đi đến cùng một kẻ chết, chớ vì cha hay mẹ mà làm mình ra ô uế. 12 Người chẳng nên đi ra khỏi nơi thánh, đừng làm cho nơi thánh của Đức Chúa Trời mình ra ô uế, vì cái mão dầu xức của Đức Chúa Trời vẫn ở trên đầu người; Ta là Đức Giê-hô-va: Các thầy tế lễ thông thường được lệnh không được làm ô uế mình vì người chết, không được đến gần xác chết (câu 1). Một số người thân cận được miễn trừ (câu 2-4). Tuy nhiên, thầy tế lễ thượng phẩm bị cấm than khóc hoặc tiếp xúc với bất kỳ xác chết nào, ngay cả cha hoặc mẹ của mình.
i. Israel như một quốc gia được kêu gọi nên thánh (Lê-vi Ký 19: 2 Hãy truyền cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng: Hãy nên thánh, vì ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời các người, vốn là thánh.). Tuy nhiên, các thầy tế lễ được kêu gọi nên thánh hơn (21:1-9). Đổi lại, thầy tế lễ thượng phẩm được kêu gọi nên thánh hơn cả các thầy tế lễ thông thường.
ii. “Ba cấp độ thánh khiết trong dân Y-sơ-ra-ên – dân sự, các thầy tế lễ và thầy tế lễ thượng phẩm – tương ứng với cấp độ thánh khiết trong đền tạm – sân ngoài (hành lang), Nơi Thánh, Nơi Chí Thánh.” (Rooker)
iii. Việc ĐỂ ĐẦU TRẦN VÀ XÉ ÁO là dấu hiệu kịch tính của sự kinh hoàng hoặc thương tiếc người chết. Vị thầy tế lễ thượng phẩm ngồi trong phiên tòa xét xử Chúa Jesus đã xé bộ đồ của mình trong một màn trình diễn kịch tính của sự kinh hoàng khi Chúa Jesus đã tuyên bố rằng mình là Đức Chúa Trời.
(Ma-thi-ơ 26:65) từ câu 63:
63 Nhưng Đức Chúa Jêsus cứ làm thinh. Thầy cả thượng phẩm lại nói với Ngài rằng: Ta khiến ngươi chỉ Đức Chúa Trời hằng sống mà thề, hãy nói cho chúng ta, ngươi có phải là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời chăng? 64 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời; vả lại, ta nói cùng các ngươi, về sau các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự trên mây từ trời mà xuống. 65 Thầy cả thượng phẩm bèn xé áo mình mà nói rằng: Nó đã nói phạm thượng; chúng ta còn cần gì người làm chứng nữa sao? Các ngươi vừa nghe lời phạm thượng đó, thì nghĩ làm sao?
iv. “Tất nhiên, điều này ngụ ý rằng nếu điều này không được thực hiện cho cha mẹ của thầy tế lễ thượng phẩm thì chắc chắn không được thực hiện cho bất kỳ người thân nào khác được đề cập trong câu 2 và 3.” (Peter-Contesse)
c. 13 Người phải cưới gái đồng trinh làm vợ. 14 Người chẳng nên cưới đàn bà góa, bị để, dâm ô hay là kỵ nữ, nhưng phải cưới một người đồng trinh trong vòng dân sự mình: Các thầy tế lễ bình thường cũng được lệnh (câu 7) không được lấy vợ là một người phụ nữ đã ly dị hoặc một gái điếm hoặc một người phụ nữ bị ô uế. Đối với thầy tế lễ thượng phẩm, tiêu chuẩn thậm chí còn cao hơn. Ông không thể cưới một góa phụ; vợ của ông phải là một trinh nữ trong dân tộc của ông.
d. 15 Người chẳng nên làm ô danh dòng họ mình giữa dân sự người, vì ta là Đức Giê-hô-va làm cho người nên thánh: Thầy tế lễ thượng phẩm cũng phải nuôi dạy con cái mình trước mặt Chúa, và không được làm ô uế chúng bằng cách dâng tế hoặc phục vụ các thần ngoại giáo của các quốc gia xung quanh.
2. (16-24) Các thầy tế lễ thừa tác phải không có khuyết tật về thể xác.
a. Không một người nào trong dòng dõi các ngươi ở các thế hệ sau, có khuyết tật, được phép đến gần để dâng bánh của Đức Chúa Trời mình: Điều này cho thấy tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời đối với những người đến trước Ngài để phục vụ như các thầy tế lễ. Lệnh cấm những người có khuyết tật về thể chất phục vụ chức thầy tế lễ có ý chỉ ra nhu cầu rõ ràng hơn nữa là phải thoát khỏi khuyết tật về mặt tâm linh khi đến với Đức Chúa Trời.
16-24 16 Đức Giê-hô-va còn phán cùng Môi-se rằng: 17 Hãy nói cùng A-rôn mà rằng: Phàm ai trong dòng họ ngươi, trải các đời, có một tật bịnh trong thân thể, CHỚ ĐẾN GẦN MÀ DÂNG VẬT THỰC CHO ĐỨC CHÚA TRỜI MÌNH. 18 Phàm ai có một tật không được đến gần, như đây: người mù, què, xẹp mũi hay là tứ chi không đều; 19 người gãy chân hay gãy tay, 20 người có bướu hay là lỏng khỏng, có vảy cá mắt hay là có ghẻ chốc, có lác hay là có hòn nang dập. 21 Phàm con cháu thầy tế lễ A-rôn, có tật trong mình, KHÔNG ĐƯỢC ĐẾN GẦN DÂNG CỦA LỄ DÙNG LỬA DÂNG LÊN CHO ĐỨC GIÊ-HÔ-VA. Nếu có một tật trong mình, không được đến gần dâng vật thực cho Đức Chúa Trời mình. 22 NGƯỜI ĐƯỢC ĂN VẬT THỰC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI MÌNH, là các vật chí thánh và các vật biệt riêng ra thánh; 23 nhưng không được đi đến bức màn, và CŨNG KHÔNG ĐƯỢC ĐI ĐẾN GẦN BÀN THỜ, VÌ CÓ TẬT NƠI MÌNH. Người chớ làm các nơi thánh ta ra ô uế, vì ta, Đức Giê-hô-va, làm các nơi đó nên thánh. 24 Môi-se nói như vậy cho A-rôn và các con trai người, cùng cho cả dân Y-sơ-ra-ên.
i. Mọi con vật dâng làm của lễ cho CHÚA đều phải không tì vết (Lê-vi Ký 1:3, 3:1). Ở đây chúng ta thấy rằng thầy tế lễ dâng của lễ cũng phải không tì vết (không có một tật nào đó). Tuy nhiên, “sự hoàn hảo” trong cả của lễ và thầy tế lễ không phải là sự hoàn hảo thực sự; nó chỉ là sự so sánh với những người khác. Sự kết hợp giữa của lễ hoàn hảo (1 Phi-e-rơ 1:19) và người dâng của lễ hoàn hảo (Hê-bơ-rơ 7:26) đã được ứng nghiệm trong Chúa Giê-xu Christ.
ii. “Mười hai dị tật về thể chất được liệt kê có thể mang tính đại diện, mặc dù đoạn văn này bao gồm cuộc thảo luận toàn diện nhất về chủ đề khiếm khuyết trong Kinh thánh.” (Rooker)
iii. 20 người có bướu hay là lỏng khỏng (BD2002 gù lưng, lùn tịt): “Ở đây có thể hiểu là người lùn bất thường hoặc người gầy và ốm yếu bất thường.” (Peter-Contesse)
iv. 23 nhưng không được đi đến bức màn, và CŨNG KHÔNG ĐƯỢC ĐI ĐẾN GẦN BÀN THỜ, VÌ CÓ TẬT NƠI MÌNH: “Câu nói đến gần bức màn che có nghĩa là đi vào phần đầu tiên của nơi thánh để đặt bánh lên bàn, thắp đèn và đốt hương cho Chúa.” (Peter-Contesse)
v. “Vào thời kỳ giữa hai giao ước, Antigonus đã cắt tai của vị tư tế cao cấp Hyracanus II (khoảng năm 40 TCN) để (vì luật này) ông sẽ mãi mãi bị loại khỏi chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm.” (Rooker)
b. 22 NGƯỜI ĐƯỢC ĂN VẬT THỰC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI MÌNH: Điều này chỉ ra rằng những người trong gia đình thầy tế lễ có thể được chức tư tế hỗ trợ. Người có khuyết tật về thể chất không thể phục vụ như một thầy tế lễ, nhưng họ có thể ăn bánh của Chúa mình, tận hưởng mối quan hệ của mình với Chúa giao ước của Israel.
i. Nó nói về người có khuyết tật, “ĐƯỢC ĂN VẬT THỰC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI MÌNH.” Điều này có nghĩa là Yahweh vẫn là Đức Chúa Trời của người đó, và không loại trừ họ khỏi mối quan hệ, chỉ loại trừ khỏi chức vụ tế lễ riêng biệt. “Những điểm yếu ngoài mong muốn của chúng ta sẽ không ngăn cản chúng ta khỏi lợi ích của Chúa Giê-xu.” (Trapp)